Khái quát chung về văn bản ủy quyền
Ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình để thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp.
MỤC LỤC
Trong thực tế, không phải bất kỳ lúc nào cá nhân hoặc tổ chức cũng có thể và buộc phải trực tiếp thực hiện công việc cũng như các quyền và nghĩa vụ của chính mình. Việc không tham gia trực tiếp có thể do nhiều lý do khác nhau hoặc khi đã tham gia vào một quan hệ hợp đồng nhất định nhưng không có đủ điều kiện thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Vì vậy, để hoàn tất một công việc nào đó thay vì tự mình thực hiện, cá nhân hoặc tổ chức có thể nhờ hay giao lại cho người khác làm thay với danh nghĩa chính mình. Đây chính là việc ủy quyền. Nói cách khác, ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình để thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp, trong phạm vi được ủy quyền. Theo đó văn bản ủy quyền được hiểu là văn bản thể hiện việc một người giao cho người khác thay mặt và nhân danh mình thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp.
Việc ủy quyền sẽ làm phát sinh quan hệ đại diện. Người được ủy quyền (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện được giao (theo Điều 134 và Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015), trừ trường hợp pháp luật có quy định công việc đó không được ủy quyền, phải do chính người có quyền đó thực hiện. Do đó về việc nguyên tắc, khi đã ủy quyền thì bên ủy quyền sẽ có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người được ủy quyền (người đại diện) xác lập trong phạm vi ủy quyền.
Theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Vì là một hợp đồng dân sự, hợp đồng ủy quyền mang đủ bản chất chung mà bất kỳ hợp đồng dân sự nào cũng có: là một sự thỏa thuận đạt được giữa các bên chủ thể (người ủy quyền và người được ủy quyền), thỏa thuận này làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Bên cạnh hợp đồng ủy quyền còn có những đặc trưng sau:
2.1. Hợp đồng ủy quyền là hợp đồng song vụ
Bên ủy quyền có quyền yêu cầu bên được ủy quyền thực hiện đúng phạm vi ủy quyền và có nghĩa vụ cung cấp thông tin, các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện công việc của bên được ủy quyền, thanh toán các chi phí hợp lý mà bên được ủy quyền bỏ ra để thực hiện công việc ủy quyền và phải trả thù lao nếu có thỏa thuận. Tương ứng với quyền và nghĩa vụ bên ủy quyền, bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc trong phạm vi ủy quyền đồng thời có quyền yêu cầu bên ủy quyền cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết để thực hiện công việc ủy quyền, quyền được hưởng thù lao và các chi phí hợp lý cho công việc ủy quyền trên (nếu có thỏa thuận về việc trả thù lao).
2.2. Hợp đồng ủy quyền là hợp đồng có hoặc không có đền bù
Theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015: “…bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Điều này có nghĩa, việc trả thù lao không được suy đoán mà phải do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Do đó, trên nguyên tắc, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định việc ủy quyền phải trả thù lao thì hợp đồng ủy quyền là hợp đồng không có đền bù, mang tính chất hữu hảo, tương trợ. Ngược lại, một khi việc ủy quyền không mang tính chất hữu hảo, tương trợ (có thù lao) thì ủy quyền là một hợp đồng có đền bù.
2.3. Đối tượng của hợp đồng ủy quyền là công việc được thực hiện
Công việc mà người được ủy quyền thực hiện nhân danh cho người ủy quyền phải là một giao dịch có tính chất pháp lý. Giao dịch pháp lý mà người được ủy quyền có thể thực hiện thường là giao kết hợp đồng, nhưng cũng có thể là giao dịch một bên như trả tiền, gửi đơn kiện…Người được ủy quyền cũng có thể được giao thực hiện các giao dịch có tính vật chất nhưng đó phải là những giao dịch vật chất gắn liền với giao dịch pháp lý mà người được ủy quyền có trách nhiệm thực hiện và nhất là phải trực tiếp phục vụ cho việc xác lập và thực hiện giao dịch pháp lý đó. Chẳng hạn, người được ủy quyền bán nhà có thể đưa người quan tâm đến việc mua nhà đến khảo sát nhà đất.
2.4. Người được ủy quyền thực hiện công việc nhân danh người ủy quyền
Theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Qua định nghĩa trên cho thấy hợp đồng ủy quyền là hợp đồng thuộc nhóm có đối tượng là thực hiện công việc nhưng điểm đặc trưng của nó so với các hợp đồng thực hiện công việc khác (hợp đồng dịch vụ, hợp đồng gửi giữ, hợp đồng gia công...) là người được ủy quyền nhân danh người ủy quyền thực hiện công việc chứ không phải nhân danh chính mình. Những quan hệ được xác lập với người thứ ba từ công việc thực hiện theo hợp đồng ủy quyền sẽ là những quan hệ ràng buộc trực tiếp quyền và nghĩa vụ giữa người ủy quyền và người thứ ba. Còn đối với hợp đồng gia công, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng gửi giữ thì bên nhận gia công, bên cung ứng dịch vụ, bên nhận gửi giữ cũng sẽ phải thực hiện những công việc nhưng nhân danh chính bên cung ứng dịch vụ, bên nhận gửi giữ, bên nhận gia công. Và như thế, những quyền và nghĩa vụ phát sinh sẽ trực tiếp ràng buộc bên nhận gia công, bên cung ứng dịch vụ với người thứ ba. Hơn nữa, người được ủy quyền khi nhân danh người ủy quyền thực hiện công việc phải vì lợi ích của người ủy quyền chứ không nhắm đến lợi ích của mình. Nếu lợi ích đó chỉ gắn với kết quả công việc thì ta vẫn có một hợp đồng ủy quyền, nhưng nếu lợi ích đó đồng thời cũng là một phần của kết quả công việc thì ta có hợp đồng khác chứ không phải là hợp đồng ủy quyền.
3. Vai trò của hợp đồng ủy quyền
Cùng với sự phát triển của xã hội là sự thăng hoa của các quan hệ pháp luật. Đặc biệt quan hệ pháp luật dân sự diễn ra phong phú và phức tạp nhưng lại gần gũi nhất trong đời sống. Để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự được thuận tiện và an toàn, Nhà nước lần lượt ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dân sự như Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991, Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 và đỉnh cao cho đến hiện nay là Bộ luật Dân sự 2015. Trong những đạo luật này chứa đựng các quy định về hợp đồng ủy quyền thể hiện được vai trò quan trọng trong đời sống dân sự. Có thể nói, quy định pháp luật về hợp đồng ủy quyền trong luật hiện hành đã giúp cho đời sống dân sự được vận hành một cách lưu loát. Khi những người tuy có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để tham gia vào các giao dịch dân sự nhưng vì lý do sức khỏe, thời gian hay ít kinh nghiệm hiểu biết trong lĩnh vực giao dịch đó, bằng cơ chế ủy quyền được pháp luật quy định, họ có thể đạt được nhu cầu cần thiết của mình. Hợp đồng ủy quyền trở thành công cụ thúc đẩy các giao dịch dân sự được diễn ra một cách thuận tiện, không trở ngại.
4. Hình thức của giao dịch được ủy quyền được công chứng
Xét về mặt hình thức thì Bộ luật dân sự 2015 không còn quy định hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận như trước đây mà gián tiếp quy định việc ủy quyền phải bằng văn bản: Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền (theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015), đồng thời xuất phát tại quy định khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014, công chứng viên chỉ có thể chứng nhận việc ủy quyền nếu được lập thành văn bản.
Xét về mặt bản chất, văn bản ủy quyền luôn là một quan hệ hợp đồng. Để phát sinh quan hệ ủy quyền và được công chứng thì các bên phải có sự thỏa thuận và thống nhất ý chí với nhau về tất cả các nội dung của ủy quyền. Do đó ủy quyền phải là quan hệ hợp đồng mà không thể và chưa bao giờ là hành vi pháp lý đơn phương. Bộ luật Dân sự 2015 đã dành 1 mục (Mục 13) của Chương XVI, bao gồm 8 Điều từ Điều 562 đến Điều 569 để quy định về hợp đồng ủy quyền. Luật Công chứng 2014 cũng đã quy định việc công chứng đối với hợp đồng ủy quyền tại Điều 55.
Tuy nhiên, bên cạnh hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng hợp đồng ủy quyền thì trong thực tiễn cuộc sống, hình thức ủy quyền bằng văn bản khác dưới dạng giấy ủy quyền cũng được sử dụng khá phổ biến. Trong lĩnh vực công chứng, việc công chứng hình thức hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng giấy ủy quyền cũng khá phổ biến, không phải là vấn đề mới. Trước đây việc chứng nhận giấy ủy quyền được quy định tại Điều 48 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực.
Phản ứng của bạn là gì?






