Một số lưu ý trong quá trình hoạt động Công chứng
Một số lưu ý, nhắc nhở trong quá trình hoạt động các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên.

1. Đối với các tổ chức hành nghề công chứng
- Lập, quản lý, sử dụng các loại sổ trong hoạt động hành nghề công chứng, chứng thực không đúng theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư số 01/2021/TT-BTP ngày 03/02/2021 của Bộ Tư pháp, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ.
2. Đối với công chứng viên
- Công chứng hợp đồng, giao dịch ngoài trụ sở nhưng lời chứng ghi không chính xác về lý do, thời gian, địa điểm công chứng.
- Lời chứng hợp đồng thế chấp không ghi rõ văn bản đăng ký chữ ký mẫu của tổ chức tín dụng theo hướng dẫn tại Công văn số 59/BTTP-CC, TPL ngày 17/01/2023 của Cục Bổ trợ tư pháp – Bộ Tư pháp.
- Hồ sơ công chứng bản dịch, hợp đồng, giao dịch: chưa thực hiện đúng mẫu theo Thông tư số 01/2021/TT-BTP ngày 03/2/2021.
- Niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản không đúng thời hạn theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Nghị định 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015.
- Công chứng hợp đồng, giao dịch trong trường hợp người ký kết hợp đồng, giao dịch không có hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện.
- Thành phần hồ sơ công chứng hợp đồng, giao dịch không đầy đủ theo quy định tại Điều 40 Luật Công chứng 2014.
- Hồ sơ chứng thực chữ ký/điểm chỉ có lời chứng không đúng mẫu ban hành kèm theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
- Thực hiện chứng thực chữ ký/chứng thực điểm chỉ có nội dung liên quan đến vấn đề hộ tịch theo quy định Luật Hộ tịch năm 2014 thì thẩm quyền xác nhận các vấn đề hộ tịch thuộc các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã... Đồng thời đầu dòng thứ nhất mục 3 Công văn số 842/HTQTCT-CT ngày 26/5/2016 của Cục Hộ tịch-Quốc tịch, Bộ Tư pháp có hướng dẫn chứng thực chữ ký trong trường hợp giấy tờ có nội dung phải thực hiện theo quy định pháp luật về hộ tịch quy định vi phạm khoản 4 Điều 5. Do đó, việc chứng thực trong trường hợp này vi phạm khoản 4 Điều 5, khoản 3 Điều 25 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
- Theo quy định quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật Luật sư (sửa đổi, bổ sung năm 2012) thì luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý phải ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý. Các tổ chức hành nghề công chứng không được công chứng hợp đồng ủy quyền giữa bên Uỷ quyền và luật sư, tổ chức hành nghề luật sư mà có nội dung, mục đích cung cấp dịch vụ pháp lý của Luật sư. Việc thực hiện công chứng các Hợp đồng uỷ quyền nói trên là vi phạm điểm m Khoản 1 Điều 7 Luật Công chứng 2014./.
Phản ứng của bạn là gì?






