Những lưu ý khi công chứng hợp đồng ủy quyền
Công chứng viên phải lưu ý về chủ thể ủy quyền, đối tượng ủy quyền, nội dung, phạm vi và thời hạn ủy quyền.
Mục lục
Quan hệ ủy quyền luôn liên quan đến hai loại chủ thể bao gồm: người ủy quyền (bên ủy quyền) và người được ủy quyền (bên được ủy quyền). Trong đó:
- Người ủy quyền (bên ủy quyền) có những dấu hiệu mà công chứng viên cần làm rõ như sau:
+ Có thể là pháp nhân, cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân:
- Nếu là pháp nhân thì việc ủy quyền được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân;
- Nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 47 Luật công chứng 2014: “Người yêu cầu công chứng là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự”. Do đó, để tham gia vào quan hệ ủy quyền, chủ thể phải đạt độ tuổi mà pháp luật quy định có năng lực trách nhiệm pháp lý và có trạng thái thần kinh bình thường. Người có năng lực hành vi dân sự, theo Điều 21 và Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 bao gồm: người thành niên, từ đủ 18 tuổi trở lên (có năng lực hành vi dân sự đầy đủ) và người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi (có năng lực hành vi dân sự một phần). Do đó, công chứng viên xác định chủ thể có khả năng tham gia vào quan hệ ủy quyền với tư cách bên ủy quyền thì trước hết phải dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 để xác định năng lực hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Tương tự, trong trường hợp bên ủy quyền là tổ chức thì việc yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó (khoản 1 Điều 47 Luật Công chứng 2014).
+ Trong trường hợp các cá nhân là thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
+ Người ủy quyền là người có quyền giao cho người khác thay mặt mình sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp.
Ngoài yêu cầu phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định, người ủy quyền còn phải có tư cách chủ thể của bên ủy quyền, tức là phải có “quyền năng” nào đó hoặc “quyền thực hiện công việc” nào đó để giao lại cho chủ thể khác. Có thể thấy rằng, muốn xác lập quan hệ ủy quyền thì điều kiện tiên quyết đối với bên ủy quyền là họ phải đang nắm giữ một “quyền” nào đó hoặc là người có “quyền thực hiện một công việc nào đó” để có thể giao lại “quyền” hay giao lại “quyền thực hiện công việc” đó cho người khác thực hiện thay cho mình.
Người đề nghị công chứng văn bản ủy quyền sẽ không có tư cách chủ thể tham gia vào quan hệ ủy quyền khi không chứng minh được mình là người có quyền đó.
Do đó, công chứng viên cần kiểm tra giấy tờ được xuất trình đã đủ cơ sở để xác định tính xác thực, hợp pháp đối với “quyền” hay “công việc” là đối tượng của yêu cầu công chứng văn bản ủy quyền hay chưa. Đây được coi là điều kiện cần để từ đó, làm phát sinh quan hệ ủy quyền.
+ Người ủy quyền không thể giao lại cho người khác “quyền” hay công việc vượt quá phạm vi mà mình có quyền thực hiện.
+ Chủ thể ủy quyền có thể là một hoặc nhiều người và luôn xuất hiện trong hợp đồng ủy quyền.
- Bên được ủy quyền có những dấu hiệu mà công chứng viên cần lưu ý, làm rõ như sau:
+ Về năng lực hành vi dân sự của cá nhân được đại diện: theo khoản 3 Điều 134 và khoản 3 Điêu 138 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người đại diện (người được ủy quyền): “Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện” và “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”. Như vậy, về nguyên tắc, người được ủy quyền có thể từ đủ mười lăm tuổi trở lên nếu pháp luật không bắt buộc việc thực hiện công việc hay việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể nào đó phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên thực hiện. Do đó, đối với trường hợp bên được ủy quyền từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, công chứng viên cần phải rà soát, đối chiếu lại các văn bản pháp luật liên quan để xem có quy định nào ràng buộc công việc phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện hay không.
+ Về việc pháp nhân là bên được ủy quyền: theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Do đó, theo quy định này, pháp nhân hoàn toàn có thể đại diện theo ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác.
+ Về số người được ủy quyền: trước đây, Bộ luật Dân sự 2005 quy định theo hướng đại diện chỉ có một người, cụ thể tại khoản 1 Điều 139: “Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Đến nay, khái niệm về đại diện tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 đã không còn ràng buộc việc đại diện chỉ có thể là một người. Quy định này là tương thích với việc Bộ luật Dân sự quy định một số trường hợp bên đại diện là nhiều người như: cha, mẹ đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên; ông, bà cùng giám hộ nên cũng là đồng đại diện cho cháu…
Bên cạnh đó, một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (theo khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015).
- Về một số hạn chế đối với chủ thể được thực hiện công việc ủy quyền
Thực tế cho thấy, trong một vài lĩnh vực nhất định, pháp luật có quy định một số điều kiện, hạn chế về đối tượng chủ thể mà người thực hiện công việc phải tuân thủ, kể cả khi được ủy quyền. Đơn cử, như Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cấm một số người không được làm đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự gồm:
+ Khi họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện.
+ Khi họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án.
+ Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.
Do đó, nếu nội dung ủy quyền liên quan đến việc tham gia tố tụng dân sự thì công chứng viên cần phải kiểm tra , xác định việc ủy quyền có vi phạm điều cấm nêu trên hay không. Điều này là hợp lý nhằm bảo đảm cho nguyên tắc của pháp luật dân sự về chế định ủy quyền: “Người đại diện phải hành động nỗ lực hết mình, nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền để thực hiện công việc được đại diện sao cho có lợi nhất (trong điều kiện cụ thể)”. Chính vì vậy, tại khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó. Điều này cũng cho thấy người đại diện và người được đại diện không thể là những người có quyền và lợi ích trái ngược, xung đột.
Tương tự, khi bên được ủy quyền là luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý, tại Điều 9 Luật Luật sư 2006, sửa đổi năm 2012 cấm luật sư “Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật”. Do đó, nếu có cơ sở cho thấy bên được ủy quyền là luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý thì công chứng viên cần phải kiểm tra, xác định việc ủy quyền có vi phạm điều cấm nêu trên hay không.
Hoặc theo Khoản 2 Điều 96 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: “…Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý”. Do đó, đối với loại việc thỏa thuận mang thai hộ thì pháp luật chỉ cho phép ủy quyền của vợ chồng cho nhau mà không cho phép ủy quyền cho người ngoài;
Hoặc cũng trong lĩnh vực nhà ở, theo khoản 2 Điều 119 Luật nhà ở 2014 quy định trường hợp chủ thể là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì khi thực hiện các giao dịch về nhà ở (trong đó có ủy quyền quản lý nhà) bên được ủy quyền còn phải thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở.
Ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình để thực hiện công việc, thực hiện một hay một số quyền năng nào đó (và thậm chí cả đối với nghĩa vụ). Do đó, công chứng viên cần lưu ý một số vấn đề về đối tượng ủy quyền như sau:
- Đối tượng của hợp đồng ủy quyền chỉ đơn thuần là công việc phải thực hiện mà không phải là bản thân tài sản hay “quyền” của chủ thể (nếu có). Có thể, công việc được ủy quyền có thể liên quan đến một tài sản hay một “quyền” nào đó, như ủy quyền với nội dung người được ủy quyền quản lý, chuyển nhượng nhà đất. Tuy nhiên, tài sản này lại không phải là đối tượng của hợp đồng ủy quyền.
Do vậy, giao dịch về ủy quyền không bị ràng buộc bởi quy định về địa hạt khi thực hiện công chứng. Theo Điều 42 Luật Công chứng 2014: “Công chứng viên của tổ chức hành, nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản”. Nói cách khác, công chứng viên không được từ chối công chứng nếu quan hệ ủy quyền có liên quan đến tài sản là bất động sản không nằm trên địa bàn tỉnh thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở.
- Với tư cách là đối tượng của ủy quyền, một khi “công việc” không tồn tại hay không còn tồn tại thì việc ủy quyền không được xác lập hay sẽ bị chấm dứt. Chính vì vậy, công chứng viên cần lưu ý việc người ủy quyền chỉ có thể ủy quyền nếu họ là người có quyền thực hiện các công việc, hành vi đó và trách nhiệm của họ là phải chứng minh được việc mình hoàn toàn có quyền thực hiện các công việc này. Việc chứng minh thường được thực hiện thông qua các giấy tờ, tài liệu ghi nhận về quyền của chủ thể hay có thể là giấy tờ có liên quan đến tư cách chủ thể.
Hay như ủy quyền tham gia tố tụng tại Tòa án, việc chứng minh “quyền” có thể được thực hiện trực tiếp thông qua giấy triệu tập, giấy mời tham gia tố tụng của Tòa án hoặc gián tiếp thông qua giấy tờ khác như: thông báo thụ lý vụ án, biên nhận đã nộp tiền tạm ứng án phí… Trong những tình huống như vậy, nội dung ủy quyền cần chuyền tải một cách chính xác căn cứ xác định tư cách chủ thể cùng với khả năng quyền tương ứng với giấy tờ, chứng minh để đảm bảo tính chặt chẽ, tính căn cứ cũng như phạm vi nội dung ủy quyền.
Bên cạnh đó, trong cùng một quan hệ pháp luật, các chủ thể khác nhau sẽ có các quyền khác nhau để ủy quyền cho người khác.
Trong trường hợp mà họ không có, không có các quyền đó, hoặc các quyền đó bị hạn chế vì một lý do nào đó như: có bản án, quyết định hành chính hoặc thông qua những thỏa thuận đối với chủ thể khác qua các giao dịch dân sự, thì họ sẽ không thể ủy quyền những công việc đó cho người khác để thực hiện được. Ngay cả khi ủy quyền đã được xác lập, nhưng nếu người ủy quyền bị mất tích, bị chết, bị hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự thì đối tượng ủy quyền đã được giao không còn, chính vì vậy mà pháp luật quy định ủy quyền phải bị chấm dứt. Do đó, công chứng viên cần lưu ý đặc điểm này để kiểm tra, xác định và ghi nhận cụ thể, chính xác về đối tượng của ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền, về khả năng tồn tại của công việc ủy quyền trong suốt thời hạn ủy quyền.
- Không phải trong bất kỳ trường hợp nào, công việc hoặc “quyền” có được hợp pháp đều có thể giao lại cho người khác thông qua ủy quyền.
Về nguyên tắc, công việc hoặc “quyền” được giao trong hợp đồng ủy quyền phải bảo đảm khi được thực hiện bởi bên được ủy quyền sẽ vì lợi ích của bên ủy quyền. Do đó, có những công việc do thuộc tính tự nhiên của nó mà nếu người được ủy quyền thực hiện sẽ không thể đáp ứng nguyên tắc vì lợi ích của bên ủy quyền. Ví dụ như: không thể ủy quyền cho người khác uống nước thay mình để hết khát.
Bên cạnh đó, công việc hoặc “quyền” cũng chỉ được ủy quyền cho người khác khi pháp luật không cấm, không hạn chế việc ủy quyền đó. Hiện nay, trong một số lĩnh vực nhất định, pháp luật có hạn chế việc ủy quyền cho người khác thực hiện quyền chủ thể. Do đó, công chứng viên cần phải thường xuyên cập nhật các trường hợp này để bảo đảm tính hợp pháp cho hợp đồng ủy quyền mà mình chứng nhận. Thông thường, những quyền, công việc gắn liền với quan hệ nhân thân không được chuyển giao, ủy quyền cho người khác. Theo khoản 1 Điều 25 Bộ luật Dân sự 2015 về quyền nhân thân quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. Đơn cử như trường hợp sau:
+ Theo khoản 2 Điều 6 Luật Hộ tịch 2014 quy định: “Trường hợp kết hôn, nhận cha, mẹ, con thì các bên phải trực tiếp thực hiện tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Đối với các việc đăng ký hộ tịch khác hoặc cấp bản sao trích lục hộ tịch thì người có yêu cầu trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết việc ủy quyền”.
+ Theo khoản 1 Điều 56 Luật Công chứng 2014 quy định: “Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc”.
- Lưu ý, Luật Nhà ở 2014 khi quy định các hình thức giao dịch về nhà ở chỉ đề cập đến hình thức “ủy quyền quản lý nhà ở” tại Điều 117 không đồng nghĩa với việc không được phép việc ủy quyền đối với thực hiện các công việc khác như: ủy quyền mua bán nhà ở, ủy quyền cho thuê nhà ở, ủy quyền thế chấp nhà ở…
Nội dung ủy quyền được hiểu là nội dung về những công việc, việc thực hiện những “quyền” mà bên ủy quyền giao lại cho người được ủy quyền thực hiện, cùng với phạm vi thực hiện những quyền, công việc này. Về mặt nguyên tắc, bên được ủy quyền chỉ được thực hiện những công việc do người ủy quyền giao trong phần nội dung hợp đồng ủy quyền. Do đó, để tránh nhầm lẫn, hiểu sai và thực hiện không đúng phạm vi công việc được giao, cũng như tránh việc lạm quyền của người được ủy quyền, thì công chứng viên cần lưu ý một số vấn đề liên quan đến cách thể hiện nội dung ủy quyền như sau:
- Công việc và phạm vi công việc được giao phải phù hợp với quyền của chủ thể (có căn cứ chứng minh).
- Công việc được giao phải rõ ràng, cụ thể, tránh sử dụng các cụm từ thể hiện tính liệt kê mang tính suy diễn như “v/v”, “…”. Do về nguyên lý, người đại diện chỉ được phép thực hiện chính xác các công việc được ghi trong hợp đồng ủy quyền và không thể thực hiện các công việc không được ghi nhận trong nội dung ủy quyền.
- Đi đôi với việc làm rõ về công việc được giao, công chứng viên còn phải xác định cụ thể những quyền và nghĩa vụ liên quan mà các bên cần phải tuân thủ để thực hiện công việc được giao. Công chứng viên cần tránh tình trạng bỏ lửng để cho các bên tự suy diễn, tùy tiện thực hiện công việc theo cách hiểu của mỗi người trong quá trình thực hiện ủy quyền. Ví dụ như: nội dung ủy quyền chỉ ghi nhận: “bên A ủy quyền cho bên B thay mặt bên A vay tiền tại ngân hàng” mà không xác định cụ thể phạm vi số tiền vay, mức độ về lãi suất, về thời hạn vay, trả nợ… là chưa chặt chẽ và có khả năng tranh chấp và xảy ra tình trạng gian dối trong quá trình thực hiện ủy quyền.
Do đó, công chứng viên khi soạn thảo nội dung ủy quyền phải dự liệu đầy đủ các hành vi mà người được ủy quyền được làm nhằm thực hiện được nội dung ủy quyền, từ đó, tư vấn cho các bên thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền. Ngoài ra, để làm tốt yêu cầu này, công chứng viên còn phải nắm vững các khái niệm, thuật ngữ pháp lý để thực hiện chính xác trong hợp đồng ủy quyền.
- Việc thực hiện công việc ủy quyền bị hạn chế về thời gian, do đó, trong nội dung về công việc được giao, công chứng viên cần hướng dẫn các bên làm rõ về thời hạn ủy quyền, thời điểm phát sinh của hiệu lực thực hiện công việc cũng như thời điểm chấm dứt công việc. Công chứng viên cần tránh bỏ lửng thời hạn ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền vì sẽ ảnh hưởng đến thời hạn thực hiện công việc của các bên. Bởi vì, theo Điều 563 Bộ luật Dân sự 2015 về thời hạn ủy quyền: “Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền”.
Thực tế cho thấy, ngoại trừ những trường hợp thời hạn do pháp luật quy định, thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận có hai cách thể hiện:
+ Cách thứ nhất: thời hạn được xác định trong một khoảng thời gian nhất định (mà các bên dự tính là hợp lý để thực hiện ủy quyền), như trong thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 5 năm… kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Cách thỏa thuận này chỉ quan tâm đến thời gian thực hiện công việc mà không quan tâm nhiều đến kết quả thực hiện công việc. Sau khi hết thời hạn này, cho dù công việc có được hoàn thành hay không thì ủy quyền cũng chấm dứt, bên được ủy quyền không được nhân danh và đại diện người ủy quyền để thực hiện công việc đó nữa. Cách quy định này có ưu điểm là xác định rõ thời hạn cụ thể, không xảy ra tình trạng tranh chấp về thời hạn, nhưng sẽ gây khó khăn cho người được ủy quyền hoàn thành công việc trong thời hạn quy định, nhất là khi việc thực hiện công việc bị ảnh hưởng, cản trở bởi những nguyên nhân khách quan.
+ Cách thứ hai: thời hạn ủy quyền được xác định theo hướng phù hợp với kết quả thực hiện ủy quyền (không ấn định theo một thời gian cụ thể). Cách thỏa thuận này theo hướng “mở”, chú trọng vào kết quả thực hiện công việc mà không quan tâm và không hạn chế thời hạn ủy quyền bằng một khoảng thời gian cụ thể. Ví dụ như: “thời hạn ủy quyền: kể từ ngày hợp đồng ủy quyền này được công chứng cho đến khi bên được ủy quyền thực hiện xong công việc được ủy quyền”.
Bên cạnh đó, khi thiết kế điều khoản về thời hạn ủy quyền, công chứng viên cần lưu ý đối với việc dùng cụm từ "cho đến khi thực hiện xong công việc được ủy quyền", đặt biệt là khi sử dụng đối với những công việc không mang tính chất chuyển quyền sở hữu. Ví dụ: ủy quyền đối với công việc cho thuê nhà có nội dung "thời hạn ủy quyền: cho đến khi thực hiện xong công việc được ủy quyền" cũng có thể đồng nghĩa với việc bên ủy quyền chỉ được thay mặt chủ sở hữu cho thuê nhà chỉ một lần.
Cách quy định này có ưu điểm là thuận lợi cho bên được ủy quyền để thực hiện xong công việc được ủy quyền, nhưng sẽ gây ra cách hiểu khác nhau về thời hạn ủy quyền giữa các bên của quan hệ ủy quyền, với người thứ ba có liên quan (đặt biệt là trong trường hợp nội dung ủy quyền có từ hai công việc phải thực hiện trở lên, như: việc ủy quyền cho thuê, thế chấp, bán hoặc tặng cho nhà đất).
Do mỗi cách xác định thời hạn đều có ưu và nhược điểm nhất định nêu trên, do đó, công chứng viên cần cân nhắc và tư vấn kỹ cho các bên về cách thể hiện thời hạn trong ủy quyền của họ.
Tóm lại, khi công chứng hợp đồng ủy quyền, là công chứng viên cần chú ý những vấn đề:
+ Các hạn chế hay điều kiện đối với chủ thể được thực hiện công việc ủy quyền không được pháp luật quy định tập trung, thống nhất mà được quy định rãi rác trong từng lĩnh vực bởi các văn bản khác nhau, cho nên, công chứng viên phải phải thường xuyên cập nhật và kiểm tra để bảo đảm tư cách chủ thể cho các bên tham gia vào quan hệ ủy quyền.
+ Cần kiểm tra, xác định và ghi nhận cụ thể, chính xác về đối tượng của ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền, về khả năng tồn tại của công việc ủy quyền trong suốt thời hạn ủy quyền. Bên cạnh đó, công việc hoặc “quyền” cũng chỉ được ủy quyền cho người khác khi pháp luật không cấm, không hạn chế việc ủy quyền đó.
+ Khi soạn thảo nội dung ủy quyền phải dự liệu đầy đủ các hành vi mà người được ủy quyền được làm nhằm thực hiện được nội dung ủy quyền, từ đó, tư vấn cho các bên thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền. Ngoài ra, để làm tốt yêu cầu này, công chứng viên còn phải nắm vững các khái niệm, thuật ngữ pháp lý để thực hiện chính xác trong hợp đồng ủy quyền
+ Cần cân nhắc và tư vấn kỹ cho các bên về cách thể hiện thời hạn trong ủy quyền của họ, như: thời hạn được xác định trong một khoảng thời gian nhất định hay thời hạn ủy quyền được xác định theo hướng phù hợp với kết quả thực hiện ủy quyền.
Phản ứng của bạn là gì?