Những vấn đề lý luận về Hợp đồng bảo đảm
Hợp đồng bảo đảm có thể là sự thỏa thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm hoặc thỏa thuận giữa bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm và người có nghĩa vụ được bảo đảm.
Mục lục
1. Khái niệm về giao dịch bảo đảm
3. Hợp đồng bảo đảm có hiệu lực khi nào?
5. Đặc điểm của hợp đồng bảo đảm
5.1. Về chủ thể bảo đảm
5.2. Về đối tượng bảo đảm
5.3. Về nội dung bảo đảm
1. Khái niệm về giao dịch bảo đảm
Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp trong đó một bên sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình hoặc sử dụng uy tín của mình (gọi là bên bảo đảm) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình hoặc của chủ thể khác (gọi là bên được bảo đảm). Các biện pháp bảo đảm theo pháp luật Việt Nam chủ yếu có tính chất tài sản, trừ biện pháp tín chấp. Nhìn chung, pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước khá tương đồng về khái niệm biện pháp bảo đảm tuy có sự khác nhau trong việc sử dụng thuật ngữ.
Pháp luật Việt Nam và pháp luật của các nước đều thừa nhận bên bảo đảm có quyền sử dụng tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá, quyền tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của mình.
2. Hợp đồng bảo đảm là gì?
Hiện nay, tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 15/5/2021 đã quy định cụ thể định nghĩa loại hợp đồng này như sau:
"Hợp đồng bảo đảm có thể là sự thỏa thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm hoặc thỏa thuận giữa bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm và người có nghĩa vụ được bảo đảm".
Đồng thời theo Điều 292 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng bảo đảm gồm các loại hợp đồng sau đây:
- Hợp đồng cầm cố tài sản;
- Hợp đồng thế chấp tài sản;
- Hợp đồng đặt cọc;
- Hợp đồng ký cược, hợp đồng ký quỹ;
- Hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu;
- Hợp đồng bảo lãnh hoặc hợp đồng tín chấp.
Như vậy, vẫn đảm bảo khái niệm về hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự theo Bộ luật Dân sự, hợp đồng bảo đảm là sự thỏa thuận giữa:
- Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm;
- Bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm và người có nghĩa vụ được bảo đảm.
Đặc biệt, cũng tại quy định này, hợp đồng bảo đảm có thể được thể hiện bằng hợp đồng riêng hoặc là điều khoản về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hình thức giao dịch dân sự khác phù hợp.
3. Hợp đồng bảo đảm có hiệu lực khi nào?
Hiện nay, về hiệu lực của giao dịch bảo đảm được quy định chi tiết tại Điều 22 Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2021 thì hiệu lực của loại hợp đồng này cũng được Chính phủ quy định như sau:
- Hợp đồng bảo đảm được công chứng, chứng thực: Có hiệu lực từ thời điểm công chứng, chứng thực.
- Hợp đồng bảo đảm không công chứng, chứng thực: Có hiệu lực từ thời điểm các bên thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận thì có hiệu lực từ thời điểm được giao kết.
Trong đó, việc công chứng, chứng thực hợp đồng bảo đảm được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan hoặc theo yêu cầu của các bên.
Đặc biệt, khoản 3 Điều 22 Nghị định này nêu rõ:
"Trường hợp tài sản bảo đảm được rút bớt theo thỏa thuận thì phần nội dung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản được rút bớt không còn hiệu lực; tài sản bảo đảm được bổ sung hoặc thay thế thì việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản này thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan".
Theo đó, trong quá trình bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bên bảo đảm có thể rút bớt tài sản nhưng khi đó, chỉ phần rút bớt đó không còn hiệu lực mà những phần khác của hợp đồng vẫn có hiệu lực. Đồng thời, phần hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản rút bớt đó cũng phải được sửa đổi, bổ sung.
Biện pháp bảo đảm chưa phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không làm thay đổi hoặc không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng bảo đảm.
4. Hình thức hợp đồng bảo đảm
Trước đây Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định, trong 7 biện pháp bảo đảm, ngoại trừ duy nhất biện pháp ký cược là không bắt buộc phải được lập thành văn bản, còn lại 6 biện pháp khác là cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp thì đều phải được lập thành văn bản. Quy định như vậy là không hợp lý và không cần thiết trong nhiều trường hợp. Nếu hợp đồng chính không phải bằng văn bản mà hợp đồng phụ phải được lập thành văn bản thì cũng không hợp lý. Ví dụ, khi mua bán vài chai bia thì thường là giao kết hợp đồng bằng lời nói và hình thức hợp đồng như vậy là hợp pháp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người mua phải đặt cọc một số tiền để bảo đảm cho nghĩa vụ trả lại vỏ chai cho ngưồi bán. Nếu cứ theo đúng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì việc đặt cọc để trả vỏ chai sẽ buộc phải lập thành văn bản.
Hiện nay Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định hai biện pháp bảo đảm bắt buộc phải được lập thành văn bản là bảo lưu quyền sở hữu và tín chấp, còn lại 7 biện pháp khác là cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ, ký cược, bảo lãnh và cầm giữ tài sản thì không bắt buộc phải được lập thành văn bản. Tất nhiên, ngoại trừ một số trường hợp như thế chấp bất động sản thì vẫn bắt buộc phải được lập thành văn bản.
Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ hai trường hợp sau đây:
Thứ nhất, giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Toà án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;
Thứ hai, giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Toà án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm, kể từ thời điểm “giao dịch dân sự được xác lập”.
Như vậy, các hợp đồng mà pháp luật quy định bắt buộc phải bằng văn bản như hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu không được lập thành văn bản thì sẽ bị vô hiệu. Tuy nhiên, nếu các bên đã thực hiện được 2/3 hợp đồng hoặc tuy chưa thực hiện được 2/3 hợp đồng, nhưng đã quá thời hạn 2 năm thì vẫn được công nhận hiệu lực.
5. Đặc điểm của hợp đồng bảo đảm
5.1. Về chủ thể bảo đảm
Quan hệ bảo đảm được xác lập làm hình thành một quan hệ pháp luật giữa các bên tham gia, trong đó quyền và nghĩa vụ của các bên được pháp luật bảo đảm thực hiện. Chủ thể của quan hệ bảo đảm bao giờ cũng chỉ gồm hai bên, một bên được gọi là bên bảo đảm, bên kia được gọi là bên nhận bảo đảm.Tuy nhiên, do tính chất đa dạng của thực tiễn nên nhiều trường hợp, bên cạnh các chủ thể của quan hệ bảo đảm còn có chủ thể khác có quyền và nghĩa vụ liên quan đến quan hệ bảo đảm và vì thế, hiện còn nhiều cách khác nhau về chủ thể của quan hệ bảo đảm. Theo quy định tại Điều 335 Bộ luật dân sự năm 2015 thì trong quan hệ bảo lãnh có ba chủ thể gồm bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
- Bên bảo đảm: Bên bảo đảm trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là bên cam kết trước bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng quan hệ bảo đảm đó về việc bằng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng việc thực hiện một công việc nhất định để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.
Như vậy, trong một quan hệ bảo đảm thì bên bảo đảm là bên cam kết trước bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm về việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Thông thường, bên bảo đảm đồng thời là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm. Chẳng hạn, B vay tiền của A và B cầm cô, thế chấp tài sản của mình để bảo đảm cho việc trả tiền đó.
Tuy nhiên, trong một số quan hệ bảo đảm, bên bảo đảm có thể là người thứ ba. Ví dụ: B vay tiền của A nhưng C là người bảo lãnh cho B trước A.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì bên bảo đảm bao gồm: bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính trị-xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín chấp.
- Bên nhận bảo đảm: Bên nhận bảo đảm trong quan hệ bảo đảm là bên chấp nhận sự cam kết của bên kia về việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản hoặc bằng việc thực hiện công việc nhất định. Như vậy, bên nhận bảo đảm luôn luôn là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm.
5.2. Về đối tượng bảo đảm
Trong sự liên quan giữa các chủ thể tham gia quan hệ nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ phải làm sao để đảm bảo lòng tin cho bên có quyền rằng nghĩa vụ sẽ được thực hiện? Cái mà bên có quyền có thể đặt lòng tin vào đó có thể là một tài sản, việc thực hiện một công việc hoặc uy tín.
Nếu cái mà các bên thông qua nó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ là tài sản thì đối tượng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được gọi là “tài sản bảo đảm” (Điều 295 Bộ luật dân sự năm 2015). Tuy nhiên, quy định của luật thực định cho thấy trong một số trường hợp nhất định, các bên có thể thỏa thuận về một đối tượng khác để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự và do đó, thuật ngữ tài sản bảo đảm sẽ không lột tả hết nội hàm của đối tượng bảo đảm, bởi vì đối tượng của giao dịch bảo đảm có thể là uy tín (tín chấp), cam kết (bảo lãnh)
Như vậy, đối tượng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thể là một trong các loại sau đây:
* Tài sản: Với ý nghĩa là một lượng tài chính dự phòng cho việc thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp đến hạn mà nghĩa vụ chính không được thực hiện hoặc thực hiện không đúrig, không đầy đủ. Điều 295 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về tài sản bảo đảm như sau:
- Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đàm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.
- Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được.
- Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai.
- Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.
Theo quy định trên thì tất cả tài sản đều có thể dùng để bảọ đảm thực hiện nghĩa vụ nếu thuộc sở hữu của bên bảo đậm. Ngoài ra, tài sản hình thành trong tương lai cũng có thể dùng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Tài sản hình thành trong tương lai tồn tại dưới các dạng sau:
- Tài sản chưa hình thạnh vào thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm.
- Tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm.
- Tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu nhưng sau thòi điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật.
* Việc thực hiện công việc
Điều 335 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”.
Thuật ngữ “sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ” trong điều luật này được hiểu là, bên bảo lãnh phải thực hiện một công việc nhất định vốn là nghĩa vụ của bên được bảo lãnh trước bên nhận bảo lãnh nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng. Công việc mà bên bảo lãnh phải thực hiện trước bên nhận bảo lãnh có thể là việc trả tiền, giấy tờ có giá; chuyển giao vật, chuyển giao quyền (gọi chung là chuyển giao tài sản); hoặc có thể là thực hiện một công việc khác tuỳ thuộc vào nội dung của nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh đó hoặc sự thoả thuận giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
* Uy tín
Điều 344 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Tổ chức chính trị- xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của pháp luật’'.
Hướng tới việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xoá đói giảm nghèo, bộ luật dân sự quy định về việc các tổ chức chính trị-xã hội tại cơ sở có thể bằng uy tín của tổ chức mình để bảo đảm cho thành viên nghèo của mình vay vốn tại một tổ chức tín dụng để phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Quy định trên cho thấy đối tượng để bảo đảm cho khoản vay trong trường hợp này không phải là tài sản. Các tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở chỉ có trách nhiệm giám sát việc sử dụng vốn vay và bằng uy tín của mình để bảo đảm trước bên cho vay rằng vốn vay sẽ được sử dụng đúng mục đích, bên vay sẽ hoàn trả vốn cùng lãi suất đúng thời hạn. Tuy nhiên, tổ chức bảo đảm không có trách nhiệm trả thay dù bên vay không thể trả nợ khi đến hạn.
Vì lý do trên, ta thấy rằng đối tượng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp tín chấp chỉ là uy tín.
Như vậy, có thể khái quát về đối tượng bảo đảm như sau: Đối tượng bảo đảm là cái mà các bên trong quan hệ bảo đảm thông qua nó để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ chính. Đối tượng bảo đảm có thể là tài sản, công việc phải thực hiện, uy tín.
5.3. Về nội dung bảo đảm
- Chủ thể của hợp đồng, giao dịch bảo đảm: chủ thể của hợp đồng giao dịch bảo đảm rất phong phú tùy từng trường hợp cụ thể mà chủ thể của hợp đồng, giao dịch bảo đảm có thể là các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình...
- Các loại chủ thể của hợp đồng bảo đảm: Đối với hợp đồng bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ thì chủ thể của hợp đồng gồm: Bên bảo đảm và bền nhận bảo đảm.
+ Bên bảo đảm: đối với dạng hợp đồng bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ thì bên bảo đảm dùng chính tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo đảm. Trường hợp này thường có trong các giao dịch bảo đảm bằng các biện pháp: cầm cố, thế chấp, đặt cọc.
+ Bên nhân bảo đảm: là bên có quyền tron quan hệ dân sự mà việc thực hiện quyền đó được bảo đảm bằng một hoặc nhiều giao dịch bảo đảm, đó chính là bên nhận cầm cố, nhận thế chấp, nhận đặt cọc, nhận ký cược, bên có quyền được ngân hàng thanh toán, bồi thường. Đối với các biện pháp bảo đảm không bằng tài sản (bảo lãnh, tín chấp), bên bảo đảm luôn là người thứ ba. Trong quan hệ bảo lãnh, bên bảo lãnh chính là người thứ ba cam kết nghĩa vụ. Riêng trường hợp tín chấp, bến bảo đảm chỉ có thể là tổ chức chính trị - xã hội tại cấp cơ sở và tổ chức này không thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ.
- Mục đích của hợp đồng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm: trong hợp đồng bảo đảm phải thể hiện rõ việc áp dụng biện pháp bảo đảm là để bảo đảm cho nghĩa vụ nào.
Ví dụ: Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thể chấp là để bảo đảm cho cho khoản vay thì trong hợp đồng phải đề cập rõ việc dùng tài sản thế chấp là để đảm cho khoản vay nào? Bao nhiêu tiền? Và được ghi nhận trong hợp ở nào. Hoặc biện pháp đặt cọc để bảo đảm cho việc mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở thì phải thể hiện rõ trong nội dung của hợp đồng.
- Đối tượng của hợp đồng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm: Đối tượng của hợp đồng là nội dung bắt buộc phải có trong nội dung của hợp đồng. Với nội dung này cần phải ghi nhận rõ đối tượng của hợp đồng là tài sản gi? Trong nội dung hợp đồng cần mô tả cụ thể hiện trạng, chất lượng tài sản danh mục tài sản, số lượng tài sản, chủng loại tài sản, đặc điểm kỹ thuật, hoa lợi, lợi tức phát sinh; nếu là bất động sản thì phải ghi rõ vị trí, diện tích, ranh giới, vật phụ kèm theo; nếu là tài sản hình thành trong tương Iai hoặc tài sản hình thành từ vốn vay thì các bên cần thỏa thuận rõ khi nào sẽ ký hợp đồng bảo đảm.
- Thời hạn thực hiện hợp đồng: với thời hạn thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm, khi xây dựng nội dung, cần chủ ý thời hạn thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm phải bằng hoặc dài hơn thời gian thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên: Tùy thuộc vào từng loại giao dịch bảo đảm thì quyền của bên bảo đảm được xác định khác nhau. Đây là nội dung chủ yếu do các bên thỏa thuận với nhau và đưa ra, vì vậy cần phải được ghi nhận rõ ràng trong nội dung của hợp đồng, thông thường trong hợp đồng liên quan đến lĩnh vực giao dịch bảo đảm đối với nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên cần có một số nội dung sau:
+ Đối với bên bảo đảm: Nếu bên bảo đảm giữ tài sản bảo đảm thì bên bảo đảm có quyền khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản bảo đảm hoặc các bên có thể thỏa thuận khác; đối với tài sản là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì bên bảo đảm được bán tài sản đó với điều kiện phải thông báo cho bên bảo đảm biết hoặc dưới sự giám sát của bên nhận bảo đảm; ngoài ra bên bảo đảm còn có quyền yêu cầu thanh thải số tiền thu được hoặc tài sản có được từ việc sử tiền đó là tài sản thay thế cho số hàng hóa luân chuyển, đã bán. Tương ứng với các quyền của bên bảo đảm có được, đối với trường hợp giữ tài sản bảo đảm thì bên bảo đảm có nghĩa vụ: bảo quản, giữ gìn tài sản bảo đảm: không được khai thác công dụng của tài sản bảo đảm, không được bán tài sản bảo đảm khi nghĩa vụ chưa đến hạn...
+ Đối với bên nhận bảo đảm: với trường hợp tài sản bảo đảm do bên bảo đảm giữ hoặc do người thứ ba giữ thi quyền của bên nhân bảo đảm được xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản bảo đảm; yêu cầu bên giữ tài sản bảo đảm phải cung cấp thông tin về thực trạng tài sản đó; yêu cầu bên giữ tài sản bảo đảm áp dụng các biện pháp cần thiết theo thỏa thuận để bảo đảm giá trị tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản có nguy cơ bị hỏng do thách, sử dụng; yêu cầu bên giữ tài sản bảo đảm giao tài sản cho minh để xử lý. Đối với trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai thì bên nhận bảo đảm có quyền giám sát, kiểm tra trong quá trình hình thành tài sản bảo đảm.
- Các thỏa thuận khác, như: việc giao nhận giấy tờ sở hữu - sử dụng của tài sản bảo đảm, các vấn đề liên quan đến sự thay đổi của tài sản bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, phạt vi phạm, giải quyết tranh chấp...
Lưu ý: Giao dịch bảo đảm vô hiệu, bị hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Xem thêm:
Nguyễn Văn Ngọc (tổng hợp)
Phản ứng của bạn là gì?






