Ông T có được xác nhận tình trạng độc thân hay không?

Trước ngày 3/1/1987 ông T có sống chung như vợ chồng với bà A, bà B và bà C nhưng không đăng ký kết hôn. Hiện tại bà A đã lập gia đình và có đăng ký kết hôn, bà B và bà C đã chết. Vậy ông T có được xác nhận tình trạng độc thân để kết hôn với bà X không?

31/08/2022 - 08:38 GMT+7
 0  245
Theo dõi DocLuat trên Google News
Ông T có được xác nhận tình trạng độc thân hay không?
không được xác nhận độc thân khi chung sống với như vợ chồng trước ngày 3/1/1987?

Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1950, đến Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Phước B, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xin xác nhận tình trạng độc thân để kết hôn với bà X. Ông T trình bày: Vào năm 1970 ông có chung sống với bà Phạm Thị A đến năm 1972, do bất đồng quan điểm ông chia tay bà A và sống cùng bà B. Đồng thời năm 1972 bà A cũng sống chung với ông N và có đăng ký hôn. Đến năm 1975 thì bà B chết và ông T chung sống với bà C, năm 2010 bà C chết. Năm 2022 ông T gặp bà X và muốn kết hôn với bà X nên đến Ủy ban nhân dân xã xin xác nhận tình trạng độc thân để làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Về việc xác nhận tình trạng hôn nhân cho ông T có hai quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: không xác nhận tình trạng độc thân cho ông T bởi ông T và bà A hai bên chung sống với nhau như vợ chồng trước thời điểm ngày 3/1/1987 mà không đăng ký kết hôn, do vậy sẽ áp dụng quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội “Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987,  ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”.  Như vậy, ông T và bà A chung sống với nhau trước ngày 3/01/1987, mặc dù chưa đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng (hôn nhân thực tế). Do ông A không có quyết định ly hôn thì Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh Phước B xác nhận tình trạng hôn nhân cho ông T là “Hiện đang có vợ là bà Phạm Thị A”. Vì vậy, ông T phải thực hiện thủ tục ly hôn với bà A trước khi kết hôn với bà X.

Quan điểm thứ hai cho rằng: phải xác nhận tình trạng độc thân cho ông T bởi lý do theo quy định tại điểm d mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Bộ Tư pháp - TANDTC - VKSNDTC hướng dẫn: “Được coi là nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây: Một là, có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; Hai là, việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận; Ba là, việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; Bốn là, họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình…”. Như vậy, nếu trong trường hợp qua xác minh mà ông T và bà A không thuộc 1 trong 4 trường hợp nêu trên thì xác nhận là đúng. Hơn nữa, hiện tại bà A đã có hôn nhân hợp pháp với ông N thì không nhất thiết ông T phải thực hiện thủ tục ly hôn để được xác nhận độc thân.

Th.s PHẠM THỊ THỦY (Khoa Sư phạm và Xã hội nhân văn Trường Đại học Kiên Giang).

Theo ông TRẦN VĂN TỪ (Học viên cao học Luật Kinh tế K14 - Trường Đại học Luật Huế) thì đứng dưới góc độ pháp lý, ông T không được xác nhận tình trạng độc thân để kết hôn với bà X:

1. Xác định quan hệ hôn nhân hợp pháp

Vào năm 1970 ông T có chung sống với bà Phạm Thị A đến năm 1972, do bất đồng quan điểm ông chia tay bà A và sống cùng bà B. Đồng thời năm 1972 bà A cũng sống chung với ông N và có đăng ký hôn. Đến năm 1975 thì bà B chết và ông T chung sống với bà C, năm 2010 bà C chết. Năm 2022 ông T gặp bà X và muốn kết hôn với bà X nên đến Ủy ban nhân dân xã xin xác nhận tình trạng độc thân để làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Xét thấy, trong trường hợp trên có những quan hệ pháp luật phát sinh như sau:

(i) Giữa ông T với bà A chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1970 đến 1972.

(ii) Giữa ông T với bà B chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1972.

(iii) Giữa ông T với bà C chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 1975.

Luật Hôn nhân Gia đình năm 1959 đang có hiệu lực phát sinh ở hai miền: (i) Đối với miền Bắc thì có hiệu lực vào ngày 13/01/1960; (ii) Đối với miền Nam thì có hiệu lực vào ngày 25/03/1977. [Tháng 7/1954, khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước tạm thời chia đôi ở Vĩ tuyến 17 - nơi dòng sông Bến Hải, Cầu Hiền Lương tỉnh Quảng Trị trở ra là Miền Bắc, trở vào là Miền Nam]

Nhận thấy, trong dữ kiện tình huống cung cấp nêu trong bài viết của tác giả Phạm Thị Thủy thì ông T có địa chỉ là ở tỉnh Kiên Giang (Được xác định là khu vực Miền Nam). Do vậy, tất cả quan hệ hôn nhân mà ông T xác lập với bà A, bà B và bà C đều là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bởi lẽ, lúc này Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 chưa có hiệu lực phát sinh tại Miền Nam vì thế việc ông T xác lập quan hệ hôn nhân giữa ông với bà A, bà B và với bà C là hoàn toàn hợp pháp vì lúc này chưa có văn bản pháp luật ghi nhận về việc cấm hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng. Tuy nhiên, năm 1975 bà B đã chết và năm 2010 thì bà C chết. Do đó, Quan hệ hôn nhân giữa ông T với bà B và giữa ông T với bà C đã chấm dứt.

Vì vậy, quan hệ hôn nhân đang tồn tại thực tế còn lại giữa ông T với bà A là hợp pháp.

Tuy nhiên, vào thời điểm này bà A đã đi kết hôn với ông N vào năm 1972. Vì dữ kiện đề bài không cung cấp đầy đủ, do vậy chúng ta cần phải xác định:

Trường hợp 1: Ông N và bà A có nơi cư trú tại khu vực miền Bắc, thì việc kết hôn này là không hợp pháp, bởi lẽ lúc này Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 đã có hiệu lực ở Miền Bắc kể từ ngày 13/01/1960. Điều 3Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 có khẳng định như sau:

“Điều 3

Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ.

Điều 5

Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác.”

Xét thấy, thì trước đó bà A đã đang tồn tại quan hệ hôn nhân thực tế hợp pháp với ông T. Vì thế, việc bà A đi kết hôn với ông N là vi phạm pháp luật về Hôn nhân và Gia đình năm 1959.

Trường hợp 2: Ông N và bà A có nơi cư trú tại khu vực miền Nam, thì việc kết hôn này là hợp pháp, bởi lẽ lúc này Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 chưa phát sinh hiệu lực ở Miền Nam (Miền Nam thì có hiệu lực vào ngày 25/03/1977).

2. Quan điểm của tác giả

Vào năm 2022 ông T gặp bà X và muốn kết hôn với bà X nên đến Ủy ban nhân dân xã xin xác nhận tình trạng độc thân để làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Như đã phân tích tại mục 1 trong bài viết này, thì quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà A vẫn còn là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Do đó, trong trường hợp này ông T không thể đến UBND xã xin xác nhận tình trạng độc thân để làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Thông tư số: 04/2020/TT-BTP Quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hộ tịch và nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch có hướng dẫn về cách ghi xác nhận tình trọng hôn nhân, Sổ cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như sau:

“Điều 33. Cách ghi Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, Sổ cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

1. Mục “Tình trạng hôn nhân” phải ghi trung thực về tình trạng hôn nhân hiện tại của người đó, cụ thể như sau:

- Nếu chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) chết hoặc bị tuyên bố là đã chết thì ghi rõ là hiện tại đang có vợ/chồng là bà/ông....”

Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định 123/2015/NĐ-CP có ghi nhận sau: “Người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp Tờ khai theo mẫu quy định. Trường hợp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nhằm mục đích kết hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình”.

Như vậy, về việc yêu cầu của ông T xác nhận tình trạng độc thân nhằm mục đích kết hôn với bà X là không phù hợp vì ông T không đáp ứng đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: 

Điều 8. Điều kiện kết hôn

1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.

Do đó, tác giả đồng tình với Quan điểm 1 trong bài viết là không xác nhận tình trạng độc thân cho ông T.

Chung sống với 2 người trước năm 1987 có được công nhận hôn nhân thực tế?

Chung sống với 2 người trước năm 1987 có được công nhận...

Chung sống với nhau không đăng ký kết hôn trước năm 1987 có được pháp luật thừa nhận quan hệ hôn nhân không? Nếu chung sống thực tế...

Nguyễn Văn Ngọc (tổng hợp)

Phản ứng của bạn là gì?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow