Phải hợp pháp hoá lãnh sự mới sao y bản chính hay dịch thuật được?

Công chứng viên yêu cầu tất cả các loại giấy tờ, tài liệu của nước ngoài đều phải hợp pháp hoá lãnh sự mới có thể sao y bản chính hay dịch thuật được?

09/03/2024 - 09:14 GMT+7
 0  159
Theo dõi DocLuat trên Google News
Phải hợp pháp hoá lãnh sự mới sao y bản chính hay dịch thuật được?
Phải hợp pháp hoá lãnh sự mới sao y bản chính hay dịch thuật được?

Nhận định trên của công chứng viên là không đúng theo quy định của pháp luật. Dựa trên các căn cứ sau đây:

1/. Về Sao Y bản chính:

Căn cứ thẩm quyền sao y của công chứng viên (Chứng thực bản sao từ bản chính) tại Điều 77 Luật công chứng 2014:

“Điều 77. Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản của công chứng viên:

1. Công chứng viên được chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản.

2. Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực”. 

Mà pháp luật chứng thực được quy định tại Nghị Định Số: 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 tại: Điều 22. Bản chính giấy tờ, văn bản không được dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao “…khoản 5. Bản chính do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này”.

Và Điều 20. Thủ tục chứng thực bản sao từ bản chính: “1. Người yêu cầu chứng thực phải xuất trình bản chính giấy tờ, văn bản làm cơ sở để chứng thực bản sao và bản sao cần chứng thực.

Trong trường hợp bản chính giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận thì phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật trước khi yêu cầu chứng thực bản sao; trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại”;

Tuy nhiên, theo quy định đề đề cập trên thì những trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc nguyên tắc có đi có lại không phải hợp pháp hóa lãnh sự mà công chứng viên vẫn thực hiện sao y được; thêm nữa Điều 9 Nghị Định 111/2011/NĐ-CP  quy định Các giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự. Hiện nay, trường hợp miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế được đăng công khai trên trang điện tử Cổng Thôn Tin Điện Tử Về Công Tác Lãnh Sự của Bộ Ngoại Giao Việt Nam:

https://lanhsuvietnam.gov.vn/Lists/BaiViet/B%C3%A0i%20vi%E1%BA%BFt/DispForm.aspx?List=dc7c7d75%2D6a32%2D4215%2Dafeb%2D47d4bee70eee&ID=755

Tiếp theo, Thông tư Số: 01/2020/TT-BTP, ngày 03 tháng 3 năm 2020 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị định 23/2015/NĐ-CP, có quy định tại: “Điều 6. Về yêu cầu hợp pháp hóa lãnh sự đối với một số giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp: Các giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp cho cá nhân như hộ chiếu, thẻ căn cước, thẻ thường trú, thẻ cư trú, giấy phép lái xe, bằng tốt nghiệp, chứng chỉ và bảng điểm kèm theo bằng tốt nghiệp, chứng chỉ thì không phải hợp pháp hóa lãnh sự khi chứng thực bản sao từ bản chính. Trường hợp yêu cầu chứng thực chữ ký người dịch trên bản dịch các giấy tờ này cũng không phải hợp pháp hóa lãnh sự”.

Như vậy, kết luận theo quy định có những loại giấy tờ được liệt nêu trên không cần phải hợp pháp hóa lãnh sự khi chứng thực bản sao từ bản chính. Yêu cầu của công chứng viên là không phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu các giấy tờ rơi vào trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự thì công chứng viên thực hiện sao y bình thường.

2/. Về dịch thuật:

Thẩm quyền dịch thuật của công chứng viên căn cứ:

Điều 2 Luật công chứng 2014, khoản 1: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.

Và Trình tự quy định thực hiện công chứng bản dịch được quy định tại Điều Điều 61 Luật công chứng 2014.

"Điều 61. Công chứng bản dịch

1. Việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt để công chứng phải do người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngoài đó. Cộng tác viên phải chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện."

Quan điểm: Công chứng viên chứng nhận bản dịch theo Luật công chứng 2014, căn cứ theo quy định như trên Luật công chứng không có quy định việc phải Hợp hóa lãnh sự đối với giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp trước khi thực hiện dịch; và trong điều 61 Luật công chứng 2014 cũng quy định các trường hợp công chứng viên không được công chứng bản dịch thì cũng không quy định đối với trường hợp các giấy tờ văn bản chưa hợp pháp lãnh sự.

Có thể công chứng viên căn cứ nhầm lẫn với việc chứng thực chữ ký của người dịch theo quy định Nghị Định Số: 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 tại Điều 32. Giấy tờ, văn bản không được dịch để chứng thực chữ ký người dịch: khoản 5 “Giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này”. Việc chứng thực chữ ký của người dịch thực hiện theo Điều 5, Nghị Định 23: của Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Phòng Tư pháp), Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn không phải của công chứng viên.

Công chứng viên cũng có thể nhầm lẫn viện dẫn theo Nghị định 11/2011/NĐ-CP Điều 4. Yêu cầu chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự “1. Để được công nhận và sử dụng ở nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu của Việt Nam phải được chứng nhận lãnh sự, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 Nghị định này. 2. Để được công nhận và sử dụng tại Việt Nam, các giấy tờ, tài liệu của nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 Nghị định này”.

Tuy Nhiên, Rõ ràng Luật công chứng là luật được áp dụng trong trường hợp này. Theo Luật số: 80/2015/QH13 ngày 22 tháng 06 năm 2015 Điều 156. Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật,“… khoản 2. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”.

Nên tóm lại là công chứng viên áp dụng theo Luật công chứng và việc công chứng bản dịch các loại giấy tờ, tài liệu của nước ngoài của công chứng viên không buộc phải hợp pháp hóa lãnh sự toàn bộ.

Nguyễn Ngọc

Phản ứng của bạn là gì?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow