Tiểu luận về hợp đồng ủy quyền
Tiểu luận về hợp đồng ủy quyền, bình luận bản chất ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình để thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền của mình.
Tình huống tiểu luận: Ủy quyền cho chị Vũ Thị Thắm quản lý, sử dụng căn nhà thuộc sở hữu của mình, chị Bùi Thị Thu Hương được cho biết: ủy quyền là việc bên nhận ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh và vì quyền lợi của bên ủy quyền, việc ủy quyền sử dụng là không vì quyền lợi của bên ủy quyền. Do vậy, nội dung ủy quyền trên là không phù hợp để ghi nhận vào nội dung của hợp đồng ủy quyền. Anh (chị) cho biết quan điểm của mình về vấn đề này. Khi công chứng hợp đồng ủy quyền, là công chứng viên anh (chị) cần chú ý những vấn đề gì?
MỤC LỤC
Mục I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN BẢN ỦY QUYỀN
1. Khái niệm văn bản ủy quyền
2. Đặc điểm hợp đồng ủy quyền2.1. Hợp đồng ủy quyền là hợp đồng song vụ
2.2. Hợp đồng ủy quyền là hợp đồng có hoặc không có đền bù
2.3. Đối tượng của hợp đồng ủy quyền là công việc được thực hiện
2.4. Người được ủy quyền thực hiện công việc nhân danh người ủy quyền
3. Vai trò của hợp đồng ủy quyền
4. Hình thức của giao dịch được ủy quyền được công chứngMục II: NỘI DUNG ỦY QUYỀN VÀ LƯU Ý KHI CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
Xã hội loài người luôn vận động, cuộc sống cũng không ngừng thay đổi. Con người ngày càng phải có mối liên hệ tác động lẫn nhau nhiều hơn. Đời sống dân sự cũng thế, xã hội phát triển thì giao dịch dân sự nói chung cũng phát triển theo. Tuy nhiên trong đời sống hiện nay, không phải chủ thể nào cũng có thể tự mình tham gia vào các giao dịch dân sự ấy. Vì vậy pháp luật cho phép một chủ thể có quyền trao quyền đó cho một người khác để thực hiện công việc thay mình để đạt được mục đích mong muốn bằng cơ chế ủy quyền. Có thể nói hợp đồng ủy quyền diễn ra thường ngày gắn liền với nhu cầu công việc và đời sống của mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Đối với hợp đồng ủy quyền, do tính chất phổ biến, đa dạng nên Nhà nước và pháp luật luôn tạo điều kiện đảm bảo và tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các chủ thể. Cụ thể Bộ luật Dân sự 2015, trên cơ sở kế thừa và phát triển pháp luật về dân sự (Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991, Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005), đã tiếp tục bổ sung và hoàn thiện quy định về hợp đồng ủy quyền để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, thuận tiện cho các chủ thể áp dụng.
Thực tiễn cho thấy, vì phạm vi ủy quyền do các bên tự thỏa thuận nên nhiều người đã lợi dụng quan hệ ủy quyền trong việc định đoạt tài sản để chiếm đoạt tài sản người khác một cách dễ dàng hoặc che giấu quan hệ chuyển nhượng nhằm trốn thuế, gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách Nhà nước. Thực trạng này diễn ra sôi nổi trong lĩnh vực bất động sản như ủy quyền mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do đó, để nhận dạng những rủi ro và tìm hiểu những vướng mắc của hợp đồng ủy quyền trong thực tế trên cơ sở phân tích những chế định pháp lý về hợp đồng ủy quyền để đưa ra những ý kiến đề xuất giải quyết vướng mắc, đây cũng là lý do tôi chọn đề tài “Ủy quyền cho chị Vũ Thị Thắm quản lý, sử dụng căn nhà thuộc sở hữu của mình, chị Bùi Thị Thu Hương được cho biết: ủy quyền là việc bên nhận ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh và vì quyền lợi của bên ủy quyền, việc ủy quyền sử dụng là không vì quyền lợi của bên ủy quyền. Do vậy, nội dung ủy quyền trên là không phù hợp để ghi nhận vào nội dung của hợp đồng ủy quyền. Anh (chị) cho biết quan điểm của mình về vấn đề này. Khi công chứng hợp đồng ủy quyền, là công chứng viên anh (chị) cần chú ý những vấn đề gì” để tôi có thể hiểu rõ hơn về các vấn đề liên quan ủy quyền với hoạt động công chứng, nhằm hoàn thiện kiến thức của bản thân, trang bị hành trang phục vụ cho công tác hành nghề sau này.
Mục I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN BẢN ỦY QUYỀN
Trong thực tế, không phải bất kỳ lúc nào cá nhân hoặc tổ chức cũng có thể và buộc phải trực tiếp thực hiện công việc cũng như các quyền và nghĩa vụ của chính mình. Việc không tham gia trực tiếp có thể do nhiều lý do khác nhau hoặc khi đã tham gia vào một quan hệ hợp đồng nhất định nhưng không có đủ điều kiện thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Vì vậy, để hoàn tất một công việc nào đó thay vì tự mình thực hiện, cá nhân hoặc tổ chức có thể nhờ hay giao lại cho người khác làm thay với danh nghĩa chính mình. Đây chính là việc ủy quyền. Nói cách khác, ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình để thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp, trong phạm vi được ủy quyền. Theo đó văn bản ủy quyền được hiểu là văn bản thể hiện việc một người giao cho người khác thay mặt và nhân danh mình thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp.
Việc ủy quyền sẽ làm phát sinh quan hệ đại diện. Người được ủy quyền (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện được giao (theo Điều 134 và Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015), trừ trường hợp pháp luật có quy định công việc đó không được ủy quyền, phải do chính người có quyền đó thực hiện. Do đó về việc nguyên tắc, khi đã ủy quyền thì bên ủy quyền sẽ có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người được ủy quyền (người đại diện) xác lập trong phạm vi ủy quyền.
Theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Vì là một hợp đồng dân sự, hợp đồng ủy quyền mang đủ bản chất chung mà bất kỳ hợp đồng dân sự nào cũng có: là một sự thỏa thuận đạt được giữa các bên chủ thể (người ủy quyền và người được ủy quyền), thỏa thuận này làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Bên cạnh hợp đồng ủy quyền còn có những đặc trưng sau:
2.1. Hợp đồng ủy quyền là hợp đồng song vụ
Bên ủy quyền có quyền yêu cầu bên được ủy quyền thực hiện đúng phạm vi ủy quyền và có nghĩa vụ cung cấp thông tin, các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện công việc của bên được ủy quyền, thanh toán các chi phí hợp lý mà bên được ủy quyền bỏ ra để thực hiện công việc ủy quyền và phải trả thù lao nếu có thỏa thuận. Tương ứng với quyền và nghĩa vụ bên ủy quyền, bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc trong phạm vi ủy quyền đồng thời có quyền yêu cầu bên ủy quyền cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết để thực hiện công việc ủy quyền, quyền được hưởng thù lao và các chi phí hợp lý cho công việc ủy quyền trên (nếu có thỏa thuận về việc trả thù lao).
2.2. Hợp đồng ủy quyền là hợp đồng có hoặc không có đền bù
Theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015: “…bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Điều này có nghĩa, việc trả thù lao không được suy đoán mà phải do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Do đó, trên nguyên tắc, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định việc ủy quyền phải trả thù lao thì hợp đồng ủy quyền là hợp đồng không có đền bù, mang tính chất hữu hảo, tương trợ. Ngược lại, một khi việc ủy quyền không mang tính chất hữu hảo, tương trợ (có thù lao) thì ủy quyền là một hợp đồng có đền bù.
2.3. Đối tượng của hợp đồng ủy quyền là công việc được thực hiện
Công việc mà người được ủy quyền thực hiện nhân danh cho người ủy quyền phải là một giao dịch có tính chất pháp lý. Giao dịch pháp lý mà người được ủy quyền có thể thực hiện thường là giao kết hợp đồng, nhưng cũng có thể là giao dịch một bên như trả tiền, gửi đơn kiện…Người được ủy quyền cũng có thể được giao thực hiện các giao dịch có tính vật chất nhưng đó phải là những giao dịch vật chất gắn liền với giao dịch pháp lý mà người được ủy quyền có trách nhiệm thực hiện và nhất là phải trực tiếp phục vụ cho việc xác lập và thực hiện giao dịch pháp lý đó. Chẳng hạn, người được ủy quyền bán nhà có thể đưa người quan tâm đến việc mua nhà đến khảo sát nhà đất.
2.4. Người được ủy quyền thực hiện công việc nhân danh người ủy quyền
Theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Qua định nghĩa trên cho thấy hợp đồng ủy quyền là hợp đồng thuộc nhóm có đối tượng là thực hiện công việc nhưng điểm đặc trưng của nó so với các hợp đồng thực hiện công việc khác (hợp đồng dịch vụ, hợp đồng gửi giữ, hợp đồng gia công...) là người được ủy quyền nhân danh người ủy quyền thực hiện công việc chứ không phải nhân danh chính mình. Những quan hệ được xác lập với người thứ ba từ công việc thực hiện theo hợp đồng ủy quyền sẽ là những quan hệ ràng buộc trực tiếp quyền và nghĩa vụ giữa người ủy quyền và người thứ ba. Còn đối với hợp đồng gia công, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng gửi giữ thì bên nhận gia công, bên cung ứng dịch vụ, bên nhận gửi giữ cũng sẽ phải thực hiện những công việc nhưng nhân danh chính bên cung ứng dịch vụ, bên nhận gửi giữ, bên nhận gia công. Và như thế, những quyền và nghĩa vụ phát sinh sẽ trực tiếp ràng buộc bên nhận gia công, bên cung ứng dịch vụ với người thứ ba. Hơn nữa, người được ủy quyền khi nhân danh người ủy quyền thực hiện công việc phải vì lợi ích của người ủy quyền chứ không nhắm đến lợi ích của mình. Nếu lợi ích đó chỉ gắn với kết quả công việc thì ta vẫn có một hợp đồng ủy quyền, nhưng nếu lợi ích đó đồng thời cũng là một phần của kết quả công việc thì ta có hợp đồng khác chứ không phải là hợp đồng ủy quyền.
3. Vai trò của hợp đồng ủy quyền
Cùng với sự phát triển của xã hội là sự thăng hoa của các quan hệ pháp luật. Đặc biệt quan hệ pháp luật dân sự diễn ra phong phú và phức tạp nhưng lại gần gũi nhất trong đời sống. Để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự được thuận tiện và an toàn, Nhà nước lần lượt ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dân sự như Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991, Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 và đỉnh cao cho đến hiện nay là Bộ luật Dân sự 2015. Trong những đạo luật này chứa đựng các quy định về hợp đồng ủy quyền thể hiện được vai trò quan trọng trong đời sống dân sự. Có thể nói, quy định pháp luật về hợp đồng ủy quyền trong luật hiện hành đã giúp cho đời sống dân sự được vận hành một cách lưu loát. Khi những người tuy có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để tham gia vào các giao dịch dân sự nhưng vì lý do sức khỏe, thời gian hay ít kinh nghiệm hiểu biết trong lĩnh vực giao dịch đó, bằng cơ chế ủy quyền được pháp luật quy định, họ có thể đạt được nhu cầu cần thiết của mình. Hợp đồng ủy quyền trở thành công cụ thúc đẩy các giao dịch dân sự được diễn ra một cách thuận tiện, không trở ngại.
4. Hình thức của giao dịch được ủy quyền được công chứng
Xét về mặt hình thức thì Bộ luật dân sự 2015 không còn quy định hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận như trước đây mà gián tiếp quy định việc ủy quyền phải bằng văn bản: Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền (theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015), đồng thời xuất phát tại quy định khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014, công chứng viên chỉ có thể chứng nhận việc ủy quyền nếu được lập thành văn bản.
Xét về mặt bản chất, văn bản ủy quyền luôn là một quan hệ hợp đồng. Để phát sinh quan hệ ủy quyền và được công chứng thì các bên phải có sự thỏa thuận và thống nhất ý chí với nhau về tất cả các nội dung của ủy quyền. Do đó ủy quyền phải là quan hệ hợp đồng mà không thể và chưa bao giờ là hành vi pháp lý đơn phương. Bộ luật Dân sự 2015 đã dành 1 mục (Mục 13) của Chương XVI, bao gồm 8 Điều từ Điều 562 đến Điều 569 để quy định về hợp đồng ủy quyền. Luật Công chứng 2014 cũng đã quy định việc công chứng đối với hợp đồng ủy quyền tại Điều 55.
Tuy nhiên, bên cạnh hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng hợp đồng ủy quyền thì trong thực tiễn cuộc sống, hình thức ủy quyền bằng văn bản khác dưới dạng giấy ủy quyền cũng được sử dụng khá phổ biến. Trong lĩnh vực công chứng, việc công chứng hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng giấy ủy quyền cũng khá phổ biến, không phải là vấn đề mới. Trước đây việc chứng nhận giấy ủy quyền được quy định tại Điều 48 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực.
Mục II: NỘI DUNG ỦY QUYỀN VÀ LƯU Ý KHI CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
Theo Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
+ Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
+ Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.
+ Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện..
Trong lĩnh vực dân sự thì quan hệ đại diện rất đa dạng và rộng rãi. Tuy nhiên, nếu tính chất của giao dịch chỉ cho phép mỗi cá nhân tự thể hiện ý chí, tự mình bày tỏ ý chí thì không được xác lập thông qua người đại diện. Ví dụ như: viêc lập di chúc (theo khoản 1 Điều 56 Luật Công chứng 2014), ly hôn (theo khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015)…
Đặt biệt trong quan hệ đại diện là giao dịch do người đại diện xác lập trong phạm vi đại diện lại làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của người được đại diện.
Theo Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
+ Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
+ Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.
Vậy, việc ủy quyền sẽ làm phát sinh quan hệ đại diện. Người được ủy quyền (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện được giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định công việc đó không được ủy quyền, phải do chính người có quyền đó thực hiện. Do đó về việc nguyên tắc, khi đã ủy quyền thì bên ủy quyền sẽ có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người được ủy quyền (người đại diện) xác lập trong phạm vi ủy quyền.
Phạm vi thẩm quyền đại diện theo ủy quyền được xác định cụ thể trong văn bản ủy quyền. Thẩm quyền đại diện theo ủy quyền phụ thuộc vào loại ủy quyền: ủy quyền một lần, ủy quyền riêng biệt hay ủy quyền chung. Ủy quyền một lần chỉ cho phép đại diện thực hiện một hành vi nhất định (như: nhận giúp bưu điện, tiền lương, bán một ngôi nhà…). Ủy quyền riêng biệt quy định thẩm quyền đại diện trong một thời gian nhất định, đối với một loại hành vi nhất định (như: đại diện cho chủ sở hữu thu tiền nhà trong một thời gian). Theo ủy quyền chung, thẩm quyền đại diện có hiệu lực đối với nhiều loại hành vi trong một thời gian nhất định.
Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Để các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người đại diện xác lập trở thành quyền, nghĩa vụ của người được đại diện thì người xác lập giao dịch đó phải có thẩm quyền đại diện và phải hành động trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Tuy nhiên, nếu xét theo nghĩa rộng thì khái niệm không có thẩm quyền đại diện bao gồm cả trường hợp hoàn toàn không có thẩm quyền đại diện và vượt thẩm quyền đại diện.
Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình. Đồng thời người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.3. Tình huống: Ủy quyền cho chị Vũ Thị Thắm quản lý, sử dụng căn nhà thuộc sở hữu của mình, chị Bùi Thị Thu Hương được cho biết: ủy quyền là việc bên nhận ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh và vì quyền lợi của bên ủy quyền, việc ủy quyền sử dụng là không vì quyền lợi của bên ủy quyền. Do vậy, nội dung ủy quyền trên là không phù hợp để ghi nhận vào nội dung của hợp đồng ủy quyền
Để giải quyết tình huống này thì ta xem xét hai vấn đề sau:
* Thứ nhất: Từ khái niệm ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình để thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp, trong phạm vi được ủy quyền. Theo đó văn bản ủy quyền được hiểu là văn bản thể hiện việc một người giao cho người khác thay mặt và nhân danh mình thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp.
Do đó, văn bản ủy quyền thể hiện việc:
+ Người ủy quyền giao cho người được ủy quyền thay mặt và nhân danh mình thực hiện công việc, như: mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đóng thuế và nộp lệ phí nhà đất, nộp phạt vi phạm hành chính…
+ Người ủy quyền giao cho người được ủy quyền thay mặt và nhân danh mình sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp, như: sử dụng nhà ở, sử dụng xe ô tô…
* Thứ hai: Việc ủy quyền sẽ làm phát sinh quan hệ đại diện. Người được ủy quyền (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện được giao (theo Điều 134 và Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015).
Vậy, người được ủy quyền nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện được giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định công việc đó không được ủy quyền, phải do chính người có quyền đó thực hiện.
Theo khoản 2 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Từ phân tích nêu trên thì quan đểm của tôi về tình huống này như sau:
- Ủy quyền là việc bên nhận ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh và vì quyền lợi của bên ủy quyền khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện được giao. Ví dụ như: đối với việc ủy quyền bán xe thì người được ủy quyền khi xác, lập thực hiện giao dịch với bên mua xe phải thỏa thuận với bên mua xe về: giá bán xe, nghĩa vụ đóng thuế và lệ phí liên quan đến việc mua bán xe, thời điểm chuyển giao xe có lợi nhất cho người ủy quyền trong phạm vi đại diện.
- Việc ủy quyền “sử dụng” là việc người ủy quyền giao cho người được ủy quyền thay mặt và nhân danh mình sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp, đây là phạm vi ủy quyền mà các bên thỏa thuận với nhau, đồng thời đây không phải là việc người được ủy quyền nhân danh bên ủy quyền thực hiện công việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì quyền lợi của bên ủy quyền. Bên cạnh đó theo khoản 1 Điều 155 Luật Nhà ở 2014 quy định: “Ủy quyền quản lý nhà ở là việc chủ sở hữu nhà ở ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở trong việc quản lý, sử dụng nhà ở trong thời hạn được ủy quyền. Việc ủy quyền quản lý nhà ở chỉ được thực hiện đối với nhà ở có sẵn”.
Chẳng có lý thuyết hay quy định nào nói việc một ai đó sử dụng cái nhà hay cái xe là “xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” cả.
Tất nhiên người ta vẫn có thể đưa vào nội dung văn bản ủy quyền cho phép sử dụng tài sản là nhà hay xe, nhưng khi đó những tài sản sản này là công cụ, phương tiện để thực hiện công việc chứ không phải là công việc được ủy quyền.
Vì vậy, nội dung ủy quyền là phù hợp và chị Bùi Thị Thu Hương phải nêu đầy đủ như sau: ủy quyền là việc bên nhận ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh và vì quyền lợi của bên ủy quyền khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự; việc ủy quyền sử dụng là việc chị Bùi Thị Thu Hương giao cho bên được ủy quyền (chị Vũ Thị Thắm) sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp là công cụ, phương tiện để thực hiện công việc chứ không phải là công việc được ủy quyền.
2. Những lưu ý khi công chứng hợp đồng ủy quyền
Quan hệ ủy quyền luôn liên quan đến hai loại chủ thể bao gồm: người ủy quyền (bên ủy quyền) và người được ủy quyền (bên được ủy quyền). Trong đó:
- Người ủy quyền (bên ủy quyền) có những dấu hiệu mà công chứng viên cần làm rõ như sau:
+ Có thể là pháp nhân, cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân:
- Nếu là pháp nhân thì việc ủy quyền được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân;
- Nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 47 Luật công chứng 2014: “Người yêu cầu công chứng là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự”. Do đó, để tham gia vào quan hệ ủy quyền, chủ thể phải đạt độ tuổi mà pháp luật quy định có năng lực trách nhiệm pháp lý và có trạng thái thần kinh bình thường. Người có năng lực hành vi dân sự, theo Điều 21 và Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 bao gồm: người thành niên, từ đủ 18 tuổi trở lên (có năng lực hành vi dân sự đầy đủ) và người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi (có năng lực hành vi dân sự một phần). Do đó, công chứng viên xác định chủ thể có khả năng tham gia vào quan hệ ủy quyền với tư cách bên ủy quyền thì trước hết phải dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 để xác định năng lực hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Tương tự, trong trường hợp bên ủy quyền là tổ chức thì việc yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó (khoản 1 Điều 47 Luật Công chứng 2014).
+ Trong trường hợp các cá nhân là thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
+ Người ủy quyền là người có quyền giao cho người khác thay mặt mình sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp.
Ngoài yêu cầu phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định, người ủy quyền còn phải có tư cách chủ thể của bên ủy quyền, tức là phải có “quyền năng” nào đó hoặc “quyền thực hiện công việc” nào đó để giao lại cho chủ thể khác. Có thể thấy rằng, muốn xác lập quan hệ ủy quyền thì điều kiện tiên quyết đối với bên ủy quyền là họ phải đang nắm giữ một “quyền” nào đó hoặc là người có “quyền thực hiện một công việc nào đó” để có thể giao lại “quyền” hay giao lại “quyền thực hiện công việc” đó cho người khác thực hiện thay cho mình.
Người đề nghị công chứng văn bản ủy quyền sẽ không có tư cách chủ thể tham gia vào quan hệ ủy quyền khi không chứng minh được mình là người có quyền đó.
Do đó, công chứng viên cần kiểm tra giấy tờ được xuất trình đã đủ cơ sở để xác định tính xác thực, hợp pháp đối với “quyền” hay “công việc” là đối tượng của yêu cầu công chứng văn bản ủy quyền hay chưa. Đây được coi là điều kiện cần để từ đó, làm phát sinh quan hệ ủy quyền.
+ Người ủy quyền không thể giao lại cho người khác “quyền” hay công việc vượt quá phạm vi mà mình có quyền thực hiện.
+ Chủ thể ủy quyền có thể là một hoặc nhiều người và luôn xuất hiện trong hợp đồng ủy quyền.
- Bên được ủy quyền có những dấu hiệu mà công chứng viên cần lưu ý, làm rõ như sau:
+ Về năng lực hành vi dân sự của cá nhân được đại diện: theo khoản 3 Điều 134 và khoản 3 Điêu 138 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người đại diện (người được ủy quyền): “Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện” và “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”. Như vậy, về nguyên tắc, người được ủy quyền có thể từ đủ mười lăm tuổi trở lên nếu pháp luật không bắt buộc việc thực hiện công việc hay việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể nào đó phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên thực hiện. Do đó, đối với trường hợp bên được ủy quyền từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, công chứng viên cần phải rà soát, đối chiếu lại các văn bản pháp luật liên quan để xem có quy định nào ràng buộc công việc phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện hay không.
+ Về việc pháp nhân là bên được ủy quyền: theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Do đó, theo quy định này, pháp nhân hoàn toàn có thể đại diện theo ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác.
+ Về số người được ủy quyền: trước đây, Bộ luật Dân sự 2005 quy định theo hướng đại diện chỉ có một người, cụ thể tại khoản 1 Điều 139: “Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Đến nay, khái niệm về đại diện tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 đã không còn ràng buộc việc đại diện chỉ có thể là một người. Quy định này là tương thích với việc Bộ luật Dân sự quy định một số trường hợp bên đại diện là nhiều người như: cha, mẹ đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên; ông, bà cùng giám hộ nên cũng là đồng đại diện cho cháu…
Bên cạnh đó, một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (theo khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015).
- Về một số hạn chế đối với chủ thể được thực hiện công việc ủy quyền
Thực tế cho thấy, trong một vài lĩnh vực nhất định, pháp luật có quy định một số điều kiện, hạn chế về đối tượng chủ thể mà người thực hiện công việc phải tuân thủ, kể cả khi được ủy quyền. Đơn cử, như Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cấm một số người không được làm đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự gồm:
+ Khi họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện.
+ Khi họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án.
+ Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.
Do đó, nếu nội dung ủy quyền liên quan đến việc tham gia tố tụng dân sự thì công chứng viên cần phải kiểm tra , xác định việc ủy quyền có vi phạm điều cấm nêu trên hay không. Điều này là hợp lý nhằm bảo đảm cho nguyên tắc của pháp luật dân sự về chế định ủy quyền: “Người đại diện phải hành động nỗ lực hết mình, nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền để thực hiện công việc được đại diện sao cho có lợi nhất (trong điều kiện cụ thể)”. Chính vì vậy, tại khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó. Điều này cũng cho thấy người đại diện và người được đại diện không thể là những người có quyền và lợi ích trái ngược, xung đột.
Tương tự, khi bên được ủy quyền là luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý, tại Điều 9 Luật Luật sư 2006, sửa đổi năm 2012 cấm luật sư “Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật”. Do đó, nếu có cơ sở cho thấy bên được ủy quyền là luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý thì công chứng viên cần phải kiểm tra, xác định việc ủy quyền có vi phạm điều cấm nêu trên hay không.
Hoặc cũng trong lĩnh vực nhà ở, theo khoản 2 Điều 119 Luật nhà ở 2014 quy định trường hợp chủ thể là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì khi thực hiện các giao dịch về nhà ở (trong đó có ủy quyền quản lý nhà) bên được ủy quyền còn phải thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở.
Ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình để thực hiện công việc, thực hiện một hay một số quyền năng nào đó (và thậm chí cả đối với nghĩa vụ). Do đó, công chứng viên cần lưu ý một số vấn đề về đối tượng ủy quyền như sau:
- Đối tượng của hợp đồng ủy quyền chỉ đơn thuần là công việc phải thực hiện mà không phải là bản thân tài sản hay “quyền” của chủ thể (nếu có). Có thể, công việc được ủy quyền có thể liên quan đến một tài sản hay một “quyền” nào đó, như ủy quyền với nội dung người được ủy quyền quản lý, chuyển nhượng nhà đất. Tuy nhiên, tài sản này lại không phải là đối tượng của hợp đồng ủy quyền.
Do vậy, giao dịch về ủy quyền không bị ràng buộc bởi quy định về địa hạt khi thực hiện công chứng. Theo Điều 42 Luật Công chứng 2014: “Công chứng viên của tổ chức hành, nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản”. Nói cách khác, công chứng viên không được từ chối công chứng nếu quan hệ ủy quyền có liên quan đến tài sản là bất động sản không nằm trên địa bàn tỉnh thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở.
- Với tư cách là đối tượng của ủy quyền, một khi “công việc” không tồn tại hay không còn tồn tại thì việc ủy quyền không được xác lập hay sẽ bị chấm dứt. Chính vì vậy, công chứng viên cần lưu ý việc người ủy quyền chỉ có thể ủy quyền nếu họ là người có quyền thực hiện các công việc, hành vi đó và trách nhiệm của họ là phải chứng minh được việc mình hoàn toàn có quyền thực hiện các công việc này. Việc chứng minh thường được thực hiện thông qua các giấy tờ, tài liệu ghi nhận về quyền của chủ thể hay có thể là giấy tờ có liên quan đến tư cách chủ thể.
Hay như ủy quyền tham gia tố tụng tại Tòa án, việc chứng minh “quyền” có thể được thực hiện trực tiếp thông qua giấy triệu tập, giấy mời tham gia tố tụng của Tòa án hoặc gián tiếp thông qua giấy tờ khác như: thông báo thụ lý vụ án, biên nhận đã nộp tiền tạm ứng án phí… Trong những tình huống như vậy, nội dung ủy quyền cần truyền tải một cách chính xác căn cứ xác định tư cách chủ thể cùng với khả năng quyền tương ứng với giấy tờ, chứng minh để đảm bảo tính chặt chẽ, tính căn cứ cũng như phạm vi nội dung ủy quyền.
Bên cạnh đó, trong cùng một quan hệ pháp luật, các chủ thể khác nhau sẽ có các quyền khác nhau để ủy quyền cho người khác.
Trong trường hợp mà họ không có, không có các quyền đó, hoặc các quyền đó bị hạn chế vì một lý do nào đó như: có bản án, quyết định hành chính hoặc thông qua những thỏa thuận đối với chủ thể khác qua các giao dịch dân sự, thì họ sẽ không thể ủy quyền những công việc đó cho người khác để thực hiện được. Ngay cả khi ủy quyền đã được xác lập, nhưng nếu người ủy quyền bị mất tích, bị chết, bị hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự thì đối tượng ủy quyền đã được giao không còn, chính vì vậy mà pháp luật quy định ủy quyền phải bị chấm dứt. Do đó, công chứng viên cần lưu ý đặc điểm này để kiểm tra, xác định và ghi nhận cụ thể, chính xác về đối tượng của ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền, về khả năng tồn tại của công việc ủy quyền trong suốt thời hạn ủy quyền.
- Không phải trong bất kỳ trường hợp nào, công việc hoặc “quyền” có được hợp pháp đều có thể giao lại cho người khác thông qua ủy quyền.
Về nguyên tắc, công việc hoặc “quyền” được giao trong hợp đồng ủy quyền phải bảo đảm khi được thực hiện bởi bên được ủy quyền sẽ vì lợi ích của bên ủy quyền. Do đó, có những công việc do thuộc tính tự nhiên của nó mà nếu người được ủy quyền thực hiện sẽ không thể đáp ứng nguyên tắc vì lợi ích của bên ủy quyền. Ví dụ như: không thể ủy quyền cho người khác uống nước thay mình để hết khát.
Bên cạnh đó, công việc hoặc “quyền” cũng chỉ được ủy quyền cho người khác khi pháp luật không cấm, không hạn chế việc ủy quyền đó. Hiện nay, trong một số lĩnh vực nhất định, pháp luật có hạn chế việc ủy quyền cho người khác thực hiện quyền chủ thể. Do đó, công chứng viên cần phải thường xuyên cập nhật các trường hợp này để bảo đảm tính hợp pháp cho hợp đồng ủy quyền mà mình chứng nhận. Thông thường, những quyền, công việc gắn liền với quan hệ nhân thân không được chuyển giao, ủy quyền cho người khác. Theo khoản 1 Điều 25 Bộ luật Dân sự 2015 về quyền nhân thân quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. Đơn cử như trường hợp sau:
+ Theo khoản 2 Điều 6 Luật Hộ tịch 2014 quy định: “Trường hợp kết hôn, nhận cha, mẹ, con thì các bên phải trực tiếp thực hiện tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Đối với các việc đăng ký hộ tịch khác hoặc cấp bản sao trích lục hộ tịch thì người có yêu cầu trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết việc ủy quyền”.
+ Theo khoản 1 Điều 56 Luật Công chứng 2014 quy định: “Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc”.
- Lưu ý, Luật Nhà ở 2014 khi quy định các hình thức giao dịch về nhà ở chỉ đề cập đến hình thức “ủy quyền quản lý nhà ở” tại Điều 117 không đồng nghĩa với việc không được phép việc ủy quyền đối với thực hiện các công việc khác như: ủy quyền mua bán nhà ở, ủy quyền cho thuê nhà ở, ủy quyền thế chấp nhà ở…
Nội dung ủy quyền được hiểu là nội dung về những công việc, việc thực hiện những “quyền” mà bên ủy quyền giao lại cho người được ủy quyền thực hiện, cùng với phạm vi thực hiện những quyền, công việc này. Về mặt nguyên tắc, bên được ủy quyền chỉ được thực hiện những công việc do người ủy quyền giao trong phần nội dung hợp đồng ủy quyền. Do đó, để tránh nhầm lẫn, hiểu sai và thực hiện không đúng phạm vi công việc được giao, cũng như tránh việc lạm quyền của người được ủy quyền, thì công chứng viên cần lưu ý một số vấn đề liên quan đến cách thể hiện nội dung ủy quyền như sau:
- Công việc và phạm vi công việc được giao phải phù hợp với quyền của chủ thể (có căn cứ chứng minh).
- Công việc được giao phải rõ ràng, cụ thể, tránh sử dụng các cụm từ thể hiện tính liệt kê mang tính suy diễn như “v/v”, “…”. Do về nguyên lý, người đại diện chỉ được phép thực hiện chính xác các công việc được ghi trong hợp đồng ủy quyền và không thể thực hiện các công việc không được ghi nhận trong nội dung ủy quyền.
- Đi đôi với việc làm rõ về công việc được giao, công chứng viên còn phải xác định cụ thể những quyền và nghĩa vụ liên quan mà các bên cần phải tuân thủ để thực hiện công việc được giao. Công chứng viên cần tránh tình trạng bỏ lửng để cho các bên tự suy diễn, tùy tiện thực hiện công việc theo cách hiểu của mỗi người trong quá trình thực hiện ủy quyền. Ví dụ như: nội dung ủy quyền chỉ ghi nhận: “bên A ủy quyền cho bên B thay mặt bên A vay tiền tại ngân hàng” mà không xác định cụ thể phạm vi số tiền vay, mức độ về lãi suất, về thời hạn vay, trả nợ… là chưa chặt chẽ và có khả năng tranh chấp và xảy ra tình trạng gian dối trong quá trình thực hiện ủy quyền.
Do đó, công chứng viên khi soạn thảo nội dung ủy quyền phải dự liệu đầy đủ các hành vi mà người được ủy quyền được làm nhằm thực hiện được nội dung ủy quyền, từ đó, tư vấn cho các bên thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền. Ngoài ra, để làm tốt yêu cầu này, công chứng viên còn phải nắm vững các khái niệm, thuật ngữ pháp lý để thực hiện chính xác trong hợp đồng ủy quyền.
- Việc thực hiện công việc ủy quyền bị hạn chế về thời gian, do đó, trong nội dung về công việc được giao, công chứng viên cần hướng dẫn các bên làm rõ về thời hạn ủy quyền, thời điểm phát sinh của hiệu lực thực hiện công việc cũng như thời điểm chấm dứt công việc. Công chứng viên cần tránh bỏ lửng thời hạn ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền vì sẽ ảnh hưởng đến thời hạn thực hiện công việc của các bên. Bởi vì, theo Điều 563 Bộ luật Dân sự 2015 về thời hạn ủy quyền: “Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền”. Thực tế cho thấy, ngoại trừ những trường hợp thời hạn do pháp luật quy định, thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận có hai cách thể hiện:
+ Cách thứ nhất: thời hạn được xác định trong một khoảng thời gian nhất định (mà các bên dự tính là hợp lý để thực hiện ủy quyền), như trong thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 5 năm… kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Cách thỏa thuận này chỉ quan tâm đến thời gian thực hiện công việc mà không quan tâm nhiều đến kết quả thực hiện công việc. Sau khi hết thời hạn này, cho dù công việc có được hoàn thành hay không thì ủy quyền cũng chấm dứt, bên được ủy quyền không được nhân danh và đại diện người ủy quyền để thực hiện công việc đó nữa. Cách quy định này có ưu điểm là xác định rõ thời hạn cụ thể, không xảy ra tình trạng tranh chấp về thời hạn, nhưng sẽ gây khó khăn cho người được ủy quyền hoàn thành công việc trong thời hạn quy định, nhất là khi việc thực hiện công việc bị ảnh hưởng, cản trở bởi những nguyên nhân khách quan.
+ Cách thứ hai: thời hạn ủy quyền được xác định theo hướng phù hợp với kết quả thực hiện ủy quyền (không ấn định theo một thời gian cụ thể). Cách thỏa thuận này theo hướng “mở”, chú trọng vào kết quả thực hiện công việc mà không quan tâm và không hạn chế thời hạn ủy quyền bằng một khoảng thời gian cụ thể. Ví dụ như: “thời hạn ủy quyền: kể từ ngày hợp đồng ủy quyền này được công chứng cho đến khi bên được ủy quyền thực hiện xong công việc được ủy quyền”. Cách quy định này có ưu điểm là thuận lợi cho bên được ủy quyền để thực hiện xong công việc được ủy quyền, nhưng sẽ gây ra cách hiểu khác nhau về thời hạn ủy quyền giữa các bên của quan hệ ủy quyền, với người thứ ba có liên quan (đặt biệt là trong trường hợp nội dung ủy quyền có từ hai công việc phải thực hiện trở lên, như: việc ủy quyền cho thuê, thế chấp, bán hoặc tặng cho nhà đất).
Do mỗi cách xác định thời hạn đều có ưu và nhược điểm nhất định nêu trên, do đó, công chứng viên cần cân nhắc và tư vấn kỹ cho các bên về cách thể hiện thời hạn trong ủy quyền của họ.
- Hợp đồng ủy quyền thể hiện được vai trò quan trọng trong đời sống dân sự. Có thể nói, quy định pháp luật về hợp đồng ủy quyền trong luật hiện hành đã giúp cho đời sống dân sự được vận hành một cách lưu loát. Khi những người tuy có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để tham gia vào các giao dịch dân sự nhưng vì lý do sức khỏe, thời gian hay ít kinh nghiệm hiểu biết trong lĩnh vực giao dịch đó, bằng cơ chế ủy quyền được pháp luật quy định, họ có thể đạt được nhu cầu cần thiết của mình. Hợp đồng ủy quyền trở thành công cụ thúc đẩy các giao dịch dân sự được diễn ra một cách thuận tiện, không trở ngại.
- Tuy nhiên, có nhiều chủ thể khi tham gia hợp đồng ủy quyền đã không tôn trọng pháp luật khi có những hành vi sai trái trong quá trình áp dụng pháp luật làm xâm hại đến lợi ích của cá nhân, tổ chức, gây thiệt hại cho Nhà nước và ảnh hưởng đến xã hội. Thực tiễn cho thấy, vì phạm vi ủy quyền do các bên tự thỏa thuận nên nhiều người đã lợi dụng quan hệ ủy quyền trong việc định đoạt tài sản để chiếm đoạt tài sản người khác một cách dễ dàng hoặc che đậy quan hệ chuyển nhượng nhằm trốn thuế, gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách Nhà nước. Thực trạng này diễn ra sôi nổi trong lĩnh vực bất động sản như: ủy quyền mua bán nhà ở, ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất…Đồng thời người dân cũng chưa có hiểu biết đầy đủ, chưa có nhận thức sâu sắc những quy định pháp luật về hợp đồng ủy quyền nên họ sẵn sàng chấp nhận tham gia vào quan hệ ủy quyền mà không lường trước được những rủi ro khi người khác lợi dụng hợp đồng ủy quyền để trục lợi.
- Cần hoàn thiện pháp luật dân sự nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ phát triển lành mạnh. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng ủy quyền nhằm thúc đẩy các giao dịch dân sự phát triển.
- Pháp luật về ủy quyền hiện nay nằm trong rất nhiều văn bản pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau, trong đó có những nội dung không thống nhất. Đây là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong việc giao kết hợp đồng ủy quyền.
- Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc ủy quyền không bị hạn chế cả về thời gian thực hiện công việc cho tới phạm vi ủy quyền. Việc người dân lợi dụng tính ưu việt của hợp đồng ủy quyền để nhằm che giấu những hành vi khác phía sau là điều có thể. Vì vậy, nếu công việc liên quan đến quản lý tài sản, chuyển nhượng tài sản pháp luật cần quy định rõ thời gian thực hiện công việc phải cụ thể chứ không được dùng những câu mang tính chất chung chung như: “thời hạn ủy quyền: kể từ khi công chứng viên ký tên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng cho đến khi thực hiện xong công việc được ủy quyền”. Để tránh trường hợp có những hợp đồng ủy quyền bán tài sản đã tồn tại khoảng gần mười năm mà không biết người ủy quyền còn sống hay đã chết hoặc có mất năng lực hành vi dân sự hay không thì trong hợp đồng ủy quyền ngoài việc quy định thời hạn hoàn thành công việc là căn cứ chấm dứt thì trong hợp đồng ủy quyền cần quy định một khoảng thời gian hợp lý.
Chế định ủy quyền và hợp đồng ủy quyền là một trong những chế định nền tảng của xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội, những quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền ngày càng hoàn thiện. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, quan hệ đại diện là một quan hệ được ghi nhận và đánh giá cao, là yếu tố không thể thiếu. Đại diện theo ủy quyền, một chế định pháp lý đã vượt ra khỏi quan niệm truyền thống đó là sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Để chế định đại diện theo ủy quyền phát huy vai trò trong cuộc sống đòi hỏi những quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền phải phù hợp với thực tiễn và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khi tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng ủy quyền.
Hợp đồng ủy quyền theo quy định của pháp luật là hợp đồng ưng thuận, có thể là hợp đồng có đền bù hoặc hợp đồng không đền bù.
Khi công chứng hợp đồng ủy quyền, là công chứng viên cần chú ý những vấn đề:
+ Các hạn chế hay điều kiện đối với chủ thể được thực hiện công việc ủy quyền không được pháp luật quy định tập trung, thống nhất mà được quy định rãi rác trong từng lĩnh vực bởi các văn bản khác nhau, cho nên, công chứng viên phải phải thường xuyên cập nhật và kiểm tra để bảo đảm tư cách chủ thể cho các bên tham gia vào quan hệ ủy quyền.
+ Cần kiểm tra, xác định và ghi nhận cụ thể, chính xác về đối tượng của ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền, về khả năng tồn tại của công việc ủy quyền trong suốt thời hạn ủy quyền. Bên cạnh đó, công việc hoặc “quyền” cũng chỉ được ủy quyền cho người khác khi pháp luật không cấm, không hạn chế việc ủy quyền đó.
+ Khi soạn thảo nội dung ủy quyền phải dự liệu đầy đủ các hành vi mà người được ủy quyền được làm nhằm thực hiện được nội dung ủy quyền, từ đó, tư vấn cho các bên thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền. Ngoài ra, để làm tốt yêu cầu này, công chứng viên còn phải nắm vững các khái niệm, thuật ngữ pháp lý để thực hiện chính xác trong hợp đồng ủy quyền
+ Cần cân nhắc và tư vấn kỹ cho các bên về cách thể hiện thời hạn trong ủy quyền của họ, như: thời hạn được xác định trong một khoảng thời gian nhất định hay thời hạn ủy quyền được xác định theo hướng phù hợp với kết quả thực hiện ủy quyền.
- Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 29 tháng 4 năm 1991;
- Bộ luật Dân sự ngày 28 tháng 10 năm 1995;
- Bộ luật Dân sự ngày 14 tháng 06 năm 2005;
- Bộ luật Dân sự ngày 24 tháng 11 năm 2015;
- Luật Công chứng ngày 20 tháng 6 năm 2014;
- Luật Đất đai ngày 29 tháng 11 năm 2013;
- Luật Nhà ở ngày 25 tháng 11 năm 2014;
- Bộ luật Tố tụng dân sự ngày 25 tháng 11 năm 2015;
- Luật Luật sư ngày 29 tháng 6 năm 2006;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Luật sư ngày 20 tháng 11 năm 2012;
- Luật Hôn nhân và gia đình ngày 19 tháng 6 năm 2014;
- Luật Hộ tịch ngày 20 tháng 11 năm 2014;
- Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực;
Nguyễn Văn Ngọc
Phản ứng của bạn là gì?