Yêu cầu chia di sản thừa kế của bố dùng làm nơi thờ cúng
ông A chết để lại di chúc hợp pháp cho anh C hưởng 1/2 di sản của ông. Riêng nhà, đất ông để lại dùng làm nơi thờ cúng mà không chia thừa kế.
I - Tình huống:
Ông A kết hôn với bà B sinh ra anh C (năm 1980) chị D (1986).
Năm 1990, ông A và bà B phát sinh mâu thuẫn và đã ly hôn họ thống nhất thỏa thuận bà B nhận cả ngôi nhà đang ở (và nuôi chị D), ông A nhận nuôi anh C và được chia một số tài sản trị giá là 30 triệu đồng.
Năm 1991 ông A dùng số tiền trên để mua đất và xây dựng 1 căn nhà khác. Tháng 9/1992, ông A kết hôn với bà T sinh ra được 2 người con là E (1994) và F (1998). Hai ông bà sống trong căn nhà mới này và ông A tuyên bố nhà, đất là của riêng không nhập vào tài sản chung.
Tháng 10/2007, ông A chết để lại di chúc hợp pháp cho anh C hưởng 1/2 di sản của ông. Riêng nhà, đất ông để lại dùng làm nơi thờ cúng mà không chia thừa kế. Đến tháng 01/2017, chị D có đơn gửi tòa án yêu cầu chia di sản thừa kế của bố. Qua điều tra xác định: nhà, đất của ông A trị giá 400 triệu đồng, ông A và bà T tạo lập được khối tài sản trị giá 800 triệu đồng.
Hãy chia di sản thừa kế trên.
II - Giải quyết tình huống:
Tổng di sản ông A để lại là: 800 triệu đồng (trong đó: nhà, đất trị giá 400 triệu đồng và 400 triệu đồng trong khối tài sản chung với bà T).
Ông A chết năm 2007, để lại di chúc ½ di sản cho C; nhà, đất trị giá 500 triệu đồng được dùng làm di sản thờ cúng. Theo đó, những người thừa kế của ông A sẽ phải cử người để quản lý di sản thờ cúng (điều 670 BLDS 2005), phần nhà, đất này sẽ không được dùng để chia thừa kế; C sẽ được hưởng ½ di sản ông A để lại là 200 triệu đồng. Còn 200 triệu không được định đoạt trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật (điều 675 BLDS 2005).
"Điều 670. Di sản dùng vào việc thờ cúng
1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
..............
Điều 675. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế."
Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông A gồm có: T, C, D, E, F mỗi người được một phần di sản bằng nhau (40 triệu đồng) theo điều 676 BLDS 2005.
"Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."
Trường hợp này, có T, E, F là những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (điều 669 BLDS 2005) theo đó những người này phải được hưởng 2/3 suất thừa kế theo pháp luật (400 : 5) là 53,3 triệu đồng. Khi phần di sản ông A không định đoạt trong di chúc được chia theo pháp luật thì những người này chưa được hưởng ít nhất 2/3 suất thừa kế theo pháp luật nên phần còn thiếu sẽ được lấy ra từ phần mà C được hưởng theo di chúc.
"Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động."
Tháng 1/2017, chị D yêu cầu chia di sản thừa kế vẫn trong thời hiệu thừa kế (điều 623 BLDS 2015).
"Điều 623. Thời hiệu thừa kế
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế."
Phản ứng của bạn là gì?