4 hiểu lầm phổ biến khi lập di chúc
Những hiểu lầm phổ biến khi lập di chúc như cho hưởng di sản để ở nhưng không cho bán, nghĩ rằng cho ai thì chỉ người đó được hưởng...

Lập di chúc để lại di sản là vấn đề trăn trở của nhiều bậc cha mẹ. Mong muốn của người để lại di sản luôn chứa đầy sự quan tâm, lo lắng và tình cảm dành cho thế hệ sau của mình. Tuy vậy, để những mong muốn đó trở thành hiện thực thì điều quan trọng nhất là nó phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật… Thực tế cho thấy vì quá lo lắng mà người lập di chúc thường mắc phải 4 sai lầm phổ biến sau:
1. Cho hưởng di sản nhưng không cho bán
Việc đưa ra điều kiện, nghĩa vụ đối với người hưởng di sản là bình thường, nó cũng không trái luật, tuy nhiên điều đó có thực hiện được hay không lại là chuyện khác.
Điều 372 Bộ luật dân sự quy định nghĩa vụ sẽ tự động chấm dứt khi bên có quyền là cá nhân chết hoặc pháp nhân chấm dứt tồn tại. Như vậy dù có yêu cầu người hưởng di sản không được bán nhưng khi người để lại di sản đã chết thì người hưởng di sản cũng không còn nghĩa vụ phải thực hiện yêu cầu đó… nghĩa là … vẫn được bán bình thường.
Theo Luật sư Phạm Thanh Bình (Công ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội):
Điều 609 Bộ luật dân sự năm 2015 cho phép "cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình". Vì vậy, việc lập di chúc để định đoạt tài sản sau khi chết là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, theo khoản 4 Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015, người lập di chúc có quyền "giao nghĩa vụ cho người thừa kế". Như vậy, nghĩa vụ của người thừa kế được giao trong trường hợp này là không được bán.
Tuy nhiên, đối với điều kiện nêu trên rất khó để kiểm soát việc người thừa kế có thực hiện theo đúng ý nguyện của người để lại di sản hay không. Bởi theo quy định của pháp luật, người thừa kế có quyền làm thủ tục để đăng ký sang tên quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở mà họ được nhận theo di chúc.
Khi đã trở thành chủ sở hữu căn nhà, họ sẽ có toàn quyền của sở hữu theo quy định của pháp luật, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Việc bán hay không bán khối tài sản lúc này là quyền của chủ sở hữu, sử dụng mới, không chịu một yếu tố ràng buộc nào cả.
Mặt khác, các cơ quan thực hiện thủ tục sang tên này cũng không ghi nhận điều kiện chuyển nhượng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (giấy chứng nhận).
Như vậy, việc tôn trọng di nguyện của người để lại là vấn đề thuộc phạm trù đạo đức chứ không thuộc các trường hợp hạn chế quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Do đó, việc người được thừa kế nhà đất nhưng lại không được chuyển nhượng cho người khác là việc khó thực hiện được trên thực tế.
2. Nghĩ rằng cho ai thì chỉ người đó được hưởng
Người vợ vì ghét ông chồng cờ bạc, trước khi chết bà làm cái di chúc để lại hết tài sản của mình cho con và yên tâm nghĩ rằng thế là xong. Nhưng thực tế không đơn giản như vậy, pháp luật vẫn cho ông chồng hưởng một phần trong khối di sản đó nếu ông chồng chết sau bà vợ, không cần biết nội dung di chúc nó nói gì (theo Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015).
Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật Dân sự.
3. Ra điều kiện hưởng di sản bất khả thi hoặc trái đạo đức
Có bà mẹ chồng uất ức với con dâu, để lại di chúc khối tài sản cả ngàn cây vàng cho con trai độc nhất với điều kiện “phải ly hôn với vợ thì mới được hưởng di sản”.
Thực tế chẳng có công chứng viên nào chấp nhận chứng di chúc với nội dung đó, và nếu có thì cũng rất dễ bị tòa án tuyên hủy.
4. Nghĩ rằng người thừa kế buộc phải thực hiện theo di chúc
Thực tế không phải vậy, vì với những bản di chúc đưa ra các điều kiện oái oăm, những người đồng thừa kế hoàn toàn có thể từ chối nhận di sản theo di chúc và thỏa thuận hưởng di sản theo pháp luật để không phải tuân theo các điều kiện đó trừ di chúc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng (theo điểm d khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015).
Có từ chối nhận di sản thờ cúng được không? Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó có được từ chối rồi đem chia theo pháp luật được không? |
Nguyễn Văn Ngọc (theo Đào Duy An)
Phản ứng của bạn là gì?






