Kết hôn giả để đi nước ngoài có vi phạm pháp luật?
Một số phụ nữ kết hôn giả tạo với người ngoại quốc để được đi nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài. Họ có bị phạt hay hay vi phạm pháp luật không?
Kết hôn là sự kiện pháp lý gắn kết người nam và người nữ, theo đó mỗi bên có quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định cụ thể. Theo Luật hôn nhân và gia đình 2014, kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Ngược lại, những hành vi vi phạm pháp luật làm tổn hại đến chế độ hôn nhân gia đình cũng bị nghiêm cấm, trong đó có hành vi kết hôn giả tạo.
Theo khoản 11 điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Theo điểm a khoản 2 điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Nhà nước cấm việc kết hôn giả tạo.
Theo điểm d khoản 2 điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020, phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Như vậy, trường hợp kết hôn giả tạo nhằm được đi nước ngoài, có được quốc tịch nước ngoài sẽ bị xử phạt như trên.
Đồng thời, theo khoản 3 điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020, người vi phạm còn bị buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp do thực hiện hành vi vi phạm quy định nêu trên (nếu có).
Khoản 2 điều điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 quy định phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với các vi phạm liên quan đến kết hôn, ly hôn, bao gồm:
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời.
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.
- Cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly hôn.
- Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.
Lưu ý:
- Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.
- Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Nguyễn Văn Ngọc (tổng hợp)
Phản ứng của bạn là gì?